ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC NĂM 2014
Môn: NGỮ VĂN; Khối: C
Thời gian làm bài:
180 phút, không kể thời gian phát đề
Câu I (2,0 điểm)
Thuở nhỏ tôi ra ra
cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình
Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai
tượng Phật
và đôi khi ăn trộm
nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi
đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ
đền Sòng
mùi hệ trắng quyện
khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo
bóng cô đồng
Tôi đâu biết bà tôi cơ
cực thế
bà mò cua xúc tép ở
đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba
Trại
Quán Cháo, Đồng Giao
thập thững những đêm hàn
(Đò Lèn – Nguyễn Duy, Ngữ văn 12,
Tập
1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 148)
Đọc đoạn thơ trên và thực hiện
các yêu cầu sau :
1. Xác định phương thức biểu đạt được
sử dụng trong đoạn thơ. (0,5 điểm)
2. Các từ “láu đáo”, “thập thững”
có vai trò gì trong việc thể hiện những hình ảnh cô đồng và người bà. (0,5 điểm)
3. Sự vô tâm của cháu và nỗi cơ
cực của bà thể hiện qua những hồi ức nào? Người cháu đã bày tỏ nỗi niềm gì qua
những hồi ức đó? (1,0 điểm).
Câu II (3,0 điểm):
Kẻ mạnh không phải là
kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ
khác trên đôi vai mình.
(Đời thừa- Nam Cao, Ngữ văn 11 Nâng cao,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013,
tr.203 – 204)
Ý kiến
trên gởi cho anh/ chị suy nghĩ gì về điều làm nên sức mạnh chân chính của mỗi
con người cũng như của một quốc gia (bài viết khoảng 600 từ)?.
Câu III (5,0 điểm)
Về hình tượng sông
Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường (sách Ngữ văn 12), có ý kiến cho rằng: Vẻ đẹp nổi bật của sông Hương là cảnh sắc
thiên nhiên thơ mộng, tình tứ. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: Vẻ đẹp bề sâu của sông Hương là những trầm
tích văn hóa, lịch sử.
Bằng cảm nhận về hình tượng sông
Hương, anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên.
BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu I:
1) Xác định phương thức biểu đạt của đoạn văn bản:
Trong đoạn thơ, tác giả đã dùng phương thức tự sự kết hợp với biểu cảm.
2) Các từ “lảo đảo”, “thập thững” đã diễn tả chân thực
và sinh động hình ảnh cô đồng trong trạng thái nửa tỉnh, nửa say; hình ảnh bà
ngoại bước thấp, bước cao trong trí nhớ của tác giả.
3) - Sự vô tâm của đứa cháu được thể hiện rõ qua câu
thơ “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”.
Nỗi vất vả của bà ngoại được thể hiện qua biện pháp liệt
kê các công việc của bà “mò cua, xúc tép, đi gánh chè xanh”; qua việc liệt kê
các địa danh “Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Dao” và qua hình ảnh người bà “thập thững”
trong những đêm đông lạnh.
- Người cháu trong đoạn thơ đã thể hiện tình yêu
thương sâu sắc đối với bà qua những hồi ức về tuổi nhỏ: Theo bà đi chợ, ăn trộm
nhãn chùa Trần, lên chơi đền Cây Thị và những nỗi cơ cực gắn liền với cuộc đời
bà.
Câu II: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau.
Sau đây chỉ là một gợi ý:
2.1 Giới thiệu vấn đề:
Dân gian có câu: “Chân lí thuộc về kẻ mạnh.”. Điều đó
cho chúng ta thấy rằng, thông thường kẻ mạnh thường là kẻ thống trị thế giới và
thống trị người khác. Nhưng sự thống trị không phải là điều cao đẹp, đáng ca ngợi
và trân trọng. Phẩm chất cao đẹp của con người là lợi ích mà họ mang đến cho đồng
loại. Chính vì vậy trong tác phẩm Đời thừa, nhà văn Nam Cao đã khẳng định: “Kẻ
mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh
chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình.”
2.2 Giải thích:
Có hai cách hiểu về kẻ mạnh: kẻ mạnh về thể lực và kẻ
mạnh về tinh thần.
Giải thích câu khẳng định của đề bài: Thế nào là sức mạnh
chân chính và sức mạnh của sự ích kỉ và xấu xa. Hình ảnh giẫm lên vai người
khác và giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình là hai hình ảnh nghệ thuật tương phản.
2.3 Bàn luận:
-
Sức mạnh
có thể dùng để giải quyết thành công nhiều công việc trong nhiều lĩnh vực khác
nhau (dẫn chứng). Dùng sức mạnh để đàn áp kẻ khác là một tội lỗi. Dùng sức mạnh
để giẫm lên vai người khác và thỏa mãn sự ích kỷ của mình là điều xấu xa. Sức mạnh
chân chính là sức mạnh mang đến lợi ích cho người khác, mang đến niềm vui và hạnh
phúc cho đồng loại.
-
Có thể
cho ví dụ vài hành động về sức mạnh không chân chính và sức mạnh chân chính. Ví
dụ như cha mẹ gánh trên vai những gánh nặng của công việc để nuôi dưỡng con cái
và đưa con cái đến bến bờ bình yên; những người gánh lấy những công việc nặng nề
và nhường những công việc nhẹ nhàng cho đồng nghiệp; những chiến sĩ hải quân và
những người lính biên phòng không quản ngại khó khăn để bảo vệ tổ quốc… là những
hành động về sức mạnh chân chính. Những người dùng sức mạnh để bắt ép người
khác làm theo ý muốn cá nhân ích kỉ của mình; Trung Quốc dùng sức mạnh của nước
lớn để đàn áp nhân dân Việt Nam …
là sự thể hiện xấu xa của sức mạnh.
-
Giúp đỡ
người khác bằng khả năng mạnh mẽ, ý chí kiên cường của mình là một phương châm
cao thượng mà con người cần phải noi theo. Khi con người mang trong tim một
tình yêu chân thành, một lí tưởng cao đẹp thì con người sẽ có một sức mạnh chân
chính. Sức mạnh đó sẽ trở nên vĩ đại hơn nhiều khi được hòa chung trong một cộng
đồng của một quốc gia hay của một dân tộc. Lịch sử nhân loại đã chứng minh
chính sức mạnh vĩ đại của mỗi dân tộc đã mang đến độc lập, tự do và hạnh phúc
cho mỗi con người trong mỗi đất nước cụ thể.
2.4 Kết luận:
Lứa tuổi học sinh phải biết tu thân, rèn luyện, học tập
để trở thành người mạnh mẽ và có ích cho đất nước. Tình yêu thương, sự hi sinh,
tính vị tha, lòng yêu nước… là những nhân tố và nền tảng tạo nên một sức mạnh
chân chính cho mỗi con người. Sức mạnh chân chính của mỗi con người là nền tảng
để quốc gia tồn tại và dân giàu, nước mạnh.
Câu III:
I. Mở bài :
- Giới thiệu tác
giả, tác phẩm.
- Giới thiệu vẻ
đẹp hình tượng sông Hương.
- Giới thiệu nhận
định.
II. Nội dung :
1) Khái niệm về
thể loại bút ký.
- Đây thật sự là
một thiên tùy bút. Tùy bút là thể loại văn học hòa quyện yếu tố tự sự với trữ
tình, nghĩa là tác giả vừa miêu tả, trần thuật sự việc hình tượng một cách
khách quan, vừa xuất hiện trực tiếp cái tôi trữ tình của tác giả.
2) Giới thiệu nội
dung :
- Là đoạn văn
xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Vẻ đẹp của đoạn văn là cảm xúc sâu
lắng được tổng hợp từ vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, văn hóa, địa lí và
văn chương cùng với tình yêu đắm say của tác giả dành cho quê hương xứ sở qua
hình tượng sông Hương.
3) Phân tích :
a) Vẻ đẹp tự
nhiên hoang sơ tình tứ của sông Hương :
- Vẻ đẹp của
sông Hương được tác giả so sánh nhân hóa mang tính cách, phẩm chất của con người.
+ Thượng nguồn của
sông Hương được ví như cô gái Digan mang vẻ đẹp “phóng khoáng, man dại” và “dịu
dàng say đắm”; dòng sông còn được so sánh như “người mẹ phù sa của một vùng văn
hóa xứ sở”, mang vẻ đẹp “dịu dàng, trí tuệ”.
+ Theo thủy
trình của dòng sông, tác giả còn so sánh như “người tài nữ” đánh đàn lúc đêm
khuya và như “nàng Kiều”, mà thành phố Huế là Kim Trọng.
+ Nét trữ tình
còn biểu hiện qua hình ảnh dòng sông đi suốt thế kỷ về đánh thức “người gái đẹp
ngủ mơ màng” giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Sông Hương thật tình tứ “lẵng
lơ kín đáo của tình yêu”.
- Vẻ hoang sơ của
sông Hương còn gợi ra từ nét “phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và
niềm kiêu hãnh âm u...”…(thí sinh có thể chon lọc thêm dẫn chứng).
- Tác giả thể hiện
bút pháp tài hoa, khả năng quan sát tinh tế gợi nhiều cảm xúc thẩm mĩ từ những
hình ảnh so sánh giàu chất trữ tình.
b) Sông Hương
mang vẻ đẹp trầm tích của văn hóa lịch sử Việt Nam :
- Dòng sông
không chỉ bồi đắp phù sa cho đôi bờ xanh cành trĩu quả, mà còn bồi đắp cho tâm
hồn con người thành vẻ đẹp văn hóa.
+ Sắc màu của
Hương giang “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” gợi nét văn hóa của con người, bởi
cái màu xanh của hy vọng, màu vàng của nhẫn nại, màu tím của thương nhớ, thủy
chung của con người nơi đây.
+ Tính cách con
người “Châu Hóa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”, như dòng sông thuộc về
một “thành phố duy nhất”.
- Trong tổng thể
vẻ đẹp mang tính cách và phẩm chất của con người, tác giả còn so sánh dòng sông
vừa cao cả biết “hiến dâng” đời mình cho những chiến công và “người con gái dịu
dàng của đất nước”, mang dấu ấn lịch sử sâu sắc.
+ Dòng sông “đã
sống những thế kỉ vinh quang với nhiệm vụ lịch sử của nó”.
+ Dòng sông cùng
thăng trầm với lịch sử với đất nước. (Thí sinh tìm thêm dẫn chứng).
4) Nhận định
chung :
- Với vốn hiểu
biết sâu sắc, phong phú và ngôn ngữ tài hoa, các phép ẩn dụ độc đáo, gợi cảm, nhà
văn đã miêu tả sống động vẻ đẹp của sông Hương. Đồng thời đã bộc lộ tình yêu nồng
nàn tha thiết dành cho quê hương xứ sở.
III. Kết luận :
- Ngợi ca tác giả,
ngợi ca tác phẩm.
- Khẳng định, nhận
định là đúng đắn.
Nguyễn Thị Đan Thanh
Trung tâm LTĐH Vĩnh Viễn- TP.HCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét