ĐỀ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM
2015
MÔN THI: NGỮ VĂN
Thời
gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc
đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Chúng tôi đứng đây trần trụi giữa trời
Cho
biển cả không còn hoang lạnh
Đứa
ở đồng chua
Đứa
vùng đất mạn
Chia
nhau nỗi nhớ nhà
Hoàng
hôn tím ngát xa khơi
Chia
nhau tin vui
Về
một cô gái làng khểnh răng, hay hát
Vầng
trăng lặn dưới chân lều bạt
Hắt
lên chúng tôi nhếch nhoáng vàng
Chúng
tôi coi thường gian nan
Dù
đồng đội tôi, có người ngã trước miệng cá mập
Có
người bị vùi dưới cơn bão dữ tợn
Ngày
mai đảo sẽ nhô lên
Tổ
quốc Việt Nam, một lần nữa nối liền
Hoàng
Sa, Trường Sa
Những
quần đảo long lanh như ngọc dát
Nói
chẳng đủ đâu, tôi phải hát
Một
bài ca bằng nhịp trái tim tôi
Đảo
à, đảo ơi!
Đảo Thuyền Chài, 4-1982
(Trích Hát về một hòn đảo- Trần Đăng Khoa, Trường Sa, NXB Văn học, 2014, tr51)
Câu 1. Đoạn thơ trên được viết theo thể
thơ nào?
Câu 2. Cuộc sống gian khổ và hiểm nguy
trên đảo của người lính được miêu tả qua những từ ngữ, hình ảnh nào?
Câu 3. Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện
pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: Những
quần đảo long lanh như ngọc dát.
Câu 4. Đoạn thơ đã gợi cho anh/chị tình
cảm gì đối với những người lính đảo? (Trình bày khoảng 5 đến 7 dòng)
Đọc
đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 5 đến câu 8:
Hội
chứng vô cảm hay nói cách khác là căn bệnh trơ cảm xúc trước niềm vui, nhất là
nỗi đau của người khác, vốn là một mặt trong hai phương diện cấu trúc bản chất
Con – Người của mỗi sinh thể người. Tính “con” và tính “người” luôn luôn hình
thành, phát triển ở mỗi con người từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi
tay. Cái thiện và cái ác luôn luôn song hành theo từng bước đi, qua từng cử
chỉ, hành vi của mỗi con người trong mối quan hệ với cộng đồng, với cha mẹ, anh
chị em, bạn bè, bà con làng xóm, đồng bào, đồng loại. Trong cuộc hành trình lâu
dài, gian khổ của một đời người, cái mất và cái được không phải đã được nhận ra
một cách dễ dàng. Mất một đồng xu, một miếng ăn, mất một phần cơ thể, mất một
vật sở hữu, con người nhận biết ngay. Nhưng có những cái mất, cái được nhiều
khi lại không dễ gì cảm nhận được ngay. Nhường bước cho một cụ già cao tuổi,
nhường chỗ cho bà mẹ có con nhỏ trên tàu xe chật chội, biếu một vài đồng cho
người hành khất,… có mất có được nhưng không phải ai cũng đã nhận ra cái gì
mình đã thu được; có khi là sự thăng hoa trong tâm hồn từ thiện và nhân ái. Nói
như một nhà văn lớn, người ta chỉ lo túi tiền rỗng đi nhưng lại không biết lo
tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần. Tôi muốn đặt vấn đề là cùng với sự báo
động những hiểm họa trong thấy, cần báo động cả hiểm họa không trông thấy hay
khó trông thấy. Hiện nay đã có quá nhiều dấu hiệu và sự kiện trầm trọng của
hiểm họa vô cảm trong xã hội ta, nhất là trong tuổi trẻ. Bạo lực đã xuất hiện
dữ dằn những tháng ngày gần đây báo hiệu nguồn gốc sâu xa ở sự xuống cấp nghiêm
trọng về nhân văn, về bệnh vô cảm.
(Trích
Nguồn gốc sâu xa của hiểm họa,
Bài tập Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, tr36-37)
Câu 5. Chỉ ra phương thức biểu đạt
chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 6. Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa
của nạn bạo lực xuất hiện gần đây là gì?
Câu 7. Tác giả đã thể hiện thái độ gì
khi bàn về hiểm họa vô cảm trong xã hội hiện nay?
Câu 8. Anh/ Chị suy nghĩ như thế nào
khi có những người “chỉ lo túi tiền rỗng
đi nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần”? (Trình
bày khoảng 5 đến 7 dòng)
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (3,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: Việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết
như việc tích lũy kiến thức.
Anh/ Chị hãy viết bài văn nghị luận
(khoảng 600 chữ) bày tỏ suy nghĩ của mình về vấn đề trên.
Câu 2 (4,0 điểm)
Người
đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
-
Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày
cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển
suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
-
Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc
đề.
-
Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
-
Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
-
Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày
cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
-
Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không?- Tôi hỏi.
-
Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền
khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn
lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…
-
Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc
thốt lên.
-
Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào
là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
-
Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua
chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?
-
Phải- Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát
lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
-
Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi
cần phải người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng
đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà
là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ.
Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở
trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi
bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ
cười- vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống
hòa thuận, vui vẻ.
-
Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? – Đột nhiên tôi hỏi.
-
Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…
(Trích
Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh
Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2015, tr.75-76)
Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật
người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận ngắn gọn về cách
nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
Bài
giải gợi ý
PHẦN I
Đọc đoạn thơ
sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4 :
Câu 1. Đoạn thơ được viết theo thể thơ
tự do.
Câu 2. Cuộc sống gian khổ và hiểm nguy
trên đảo của người lính được miêu tả qua những từ ngữ “trần trụi, gian nan,
hoang lạnh” và những hình ảnh “ngã trước miệng cá mập, vùi dưới cơn bão dữ tợn”
Câu 3. Biện pháp tu từ được sử dụng
trong câu thơ : so sánh; hiệu quả nghệ thuật : lời thơ sinh động, tạo hình,
biểu cảm; tạo ấn tượng sâu đậm về vẻ đẹp của biển đảo, của quê hương.
Câu 4. Học sinh có thể trình bày nhiều
cách khác nhau, nhưng cần nêu được tình cảm đối với những người lính đảo : đồng
cảm, mến phục, tự hào.
Đọc
đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 5 đến câu 8:
Câu 5. Phương thức biểu đạt chính được
sử dụng trong đoạn trích : phương thức nghị luận.
Câu 6. Theo tác giả nguồn gốc sâu xa
của nạn bạo lực xuất hiện gần đây xuất phát từ hội chứng vô cảm dẫn đến hậu quả
là sự xuống cấp nghiêm trọng về nhân văn.
Câu 7. Thái độ của tác giả khi bàn về
hiểm họa vô cảm của xã hội hiện nay: tác giả đã có cách đánh giá nghiêm túc,
khoa học; tìm ra nguyên nhân, hậu quả, nêu dẫn chứng cụ thể. Qua đó, ta có thể
thấy tác giả rất lo lắng, bức xúc về hiểm họa vô cảm.
Câu 8. Học sinh có thể trình bày nhiều
cách khác nhau, nhưng cần nêu được các ý sau:
- “Lo túi
tiền rỗng” là lo sự nghèo nàn về vật chất.
- “Lo tâm
hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần” là lo sự nghèo nàn về tâm hồn, tinh thần.
- Lo nghèo nàn về vật chất mà không lo sự nghèo
nàn về tâm hồn, tinh thần sẽ dẫn đến “hội chứng vô cảm”. Đây là một hiểm họa
sâu xa đối với xã hội.
Phần II:
Câu 1 (3,0 điểm) Có ý kiến cho rằng : Việc rèn luyện kỹ năng sống cũng cần thiết
như việc tích lũy kiến thức
Anh/chị hãy
viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ suy nghĩ của mình về vấn đề
trên.
Yêu
cầu chung
- Câu này
kiểm tra năng lực viết bài nghị luận xã hội của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải
huy động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả
năng bày tỏ quan điểm riêng của mình để làm bài. Trong đó, đặc biệt lưu ý đến
việc thể hiện bố cục hoàn chỉnh của một bài văn nghị luận (có đủ mở bài, thân
bài, kết bài; thân bài phải bao gồm nhiều đoạn văn), cách hành văn, chính xác
và sinh động. Đồng thời phải đáp ứng đúng và đầy đủ yêu cầu về luận đề và nội
dung.
- Thí sinh
có thể triển khai vấn đề theo nhiều cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ và căn
cứ xác đáng; được tự do bày tỏ quan điểm của mình, nhưng phải có thái độ chân
thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội và luật pháp.
Yêu
cầu cụ thể
1. Giải thích ý kiến
Thí sinh cần
giải thích thế nào là kỹ năng sống và việc tích lũy kiến thức. Kỹ năng sống là
những kỹ năng cần thiết giúp con người sống và sống hội nhập được với xã hội.
Chẳng hạn như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nói trước đám đông, kỹ năng sinh tồn
và vượt thoát trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ
năng học tập có phương pháp, kỹ năng giải quyết khó khăn, kỹ năng đối phó với
nguy hiểm, kỹ năng hòa hợp với thiên nhiên,... Từ đó xác định ý kiến được nêu
trong đề có nội dung khẳng định vai trò quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng
sống: cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức.
2. Bàn luận
Thí sinh có
thể mở rộng sự bàn luận ra các hướng khác nhau; dưới đây là những ý tham khảo
(không nhất thiết thí sinh phải làm giống những ý này):
- Để có thể
hòa hợp với đời sống xã hội, con người cần phải tích lũy một số kiến thức căn
bản từ gia đình, nhà trường, xã hội, sách vở, báo chí,...
- Có nhiều
người bị vấp ngã một cách đau đớn vì thiếu kỹ năng sống. Đôi khi thiếu vài kỹ
năng sống nào đó mà con người phải trả một giá khá đắt (ví dụ minh họa).
- Thiếu kỹ
năng sống, người ta có thể hành động một cách sai trái, dại dột. Từ đó trở
thành mối nguy hiểm cho xã hội (ví dụ minh họa: thiếu kỹ năng giải quyết những
va chạm tình cờ gặp phải trong cuộc sống, chỉ từ một sự va chạm nhỏ trong giao
thông, người ta có thể trở thành một kẻ sát nhân) .
- Có kỹ năng
sống tốt, phù hợp với hoàn cảnh xã hội, người ta dễ đạt được sự thăng tiến. Có
nhiều người kiến thức và học vị không cao nhưng có kỹ năng sống tốt đã đạt được
nhiều thành công lớn trong cuộc sống (ví dụ minh họa)
- Cuộc sống
phát triển, khoa học công nghệ ngày càng đổi mới. Nó đòi hỏi người làm việc
phải có những cái kỹ năng mới như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng về ngoại ngữ,
tin học, kỹ năng hội nhập với cộng đồng quốc tế, kỹ năng ứng xử với những mặt
trái của mạng xã hội,... Ví dụ trường hợp một nữ sinh đã tự tử vì không biết
cách ứng phó với hành vi xấu xúc phạm đến đời tư từ mạng xã hội.
- Khẳng định
tính đúng đắn của luận đề: rèn luyện kỹ năng sống là một việc cần thiết không
kém với việc tích lũy kiến thức, đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh.
3. Bài học nhận thức và hành động
Từ những suy
nghĩ và liên hệ của mình, thí sinh có thể rút ra những bài học khác nhau; dưới
đây là những ý tham khảo:
- Kỹ năng
sống không phải tự dưng mà có, nó đòi hỏi xã hội và bản thân phải có ý thức sâu
sắc về sự quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống. Từ trong gia đình, ông bà
cha mẹ, anh chị, ngay từ đầu phải có ý thức giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống
cho con em của mình. Nhà trường nên đưa kỹ năng sống vào giờ học chính khóa và
xem đó là một trong những mục tiêu giáo dục quan trọng, bên cạnh việc giáo dục
kiến thức. Các tổ chức xã hội cũng nên cũng tạo điều kiện để mọi công dân được
rèn luyện kỹ năng sống. Các cấp chính quyền cần xây dựng môi trường sống lành
mạnh để góp phần tạo lập nếp sống phù hợp với chuẩn mực pháp luật và đạo đức
nêu tấm gương tốt cho những người trẻ phấn đấu và hành xử.
- Bản thân
từng người, nhất là học sinh, sinh viên cần phải thấy sự cần thiết và ích lợi
của việc rèn luyện kỹ năng sống để từ đó bên cạnh việc trao dồi kiến thức có ý
thức và nỗ lực rèn luyện kỹ năng sống.
- Nếu bên
cạnh kiến thức tốt, tất cả mọi người đều có kỹ năng sống tốt thì đời sống xã
hội sẽ trở nên tốt đẹp và đáng sống hơn.
Câu 2.
* Yêu cầu chung : Thí sinh
phải biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập
văn bản; bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết phải có cảm xúc thể
hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết;
không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
* Yêu cầu cụ thể :
1) Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận:
gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết luận. Phần mở bài phải biết dẫn dắt hợp lý và
nêu được vấn đề; phần thân bài phải biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết
chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần kết luận phải khái quát được
vấn đề và thể hiện ấn tượng, cảm xúc sâu đậm của người viết.
2) Xác định đúng vấn đề cần nghị
luận: cảm nhận về người đàn bà hàng chài trong đoạn trích và bình luận về cách
nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
3) Biết chia các vấn đề nghị luận
thành các luận điểm phù hợp và triển khai các luận điểm ấy theo một trình tự
hợp lý, có sự liên kết chặt chẽ; biết sử dụng tốt các theo tác lập luận trong
đó có các thao tác như: phân tích, bình luận; biết kết hợp giữa nêu lý lẽ và
dẫn chứng.
* Những gợi ý cụ thể :
1) Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh
Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật người đàn bà hàng chài.
2) Cảm nhận về người đàn bà hàng
chài trong đoạn trích.
a) Hoàn cảnh và số phận của người
đàn bà hàng chài:
- Thuyền nhỏ, đông con dẫn đến cuộc
sống đói nghèo.
- Không thể lên bờ vì làm nghề
thuyền lưới vó
- Thường xuyên bị chồng đánh.
b) Vẻ đẹp của một người vợ:
- Hiểu chồng và nỗi khổ của chồng
- Hiểu được vai trò của một người
chồng trong gia đình và trong cuộc sống của người làm nghề chài lưới.
c) Vẻ đẹp của một người mẹ:
- Thương con vô bờ bến
- Sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình cho
các con
3) Bình luận về cách nhìn nhận cuộc
sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu:
a) Qua hình tượng nhân vật người đàn
bà hàng chài tác giả Nguyễn Minh Châu thể hiện cái nhìn cảm thông trước số phận
đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một gia đình hàng chài, từ đó
thấu hiểu: mỗi người trong cõi đời nhất là người nghệ sĩ không thể đơn giản, sơ
lược khi nhìn nhận cuộc sống của con người.
b) Qua tác phẩm và nhân vật người
đàn bà hàng chài tác giả đã mang đến bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc
sống của con người: một cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện bản chất thực
sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
c) Qua tác phẩm Nguyễn Minh Châu
gióng lên hồi chuông cảnh báo về nạn bạo hành gia đình là hậu quả do cái đói.
Nguyễn Thị Dịu Thu
Trường THPT Vĩnh Viễn
--------------------------------
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2015 ĐÁP ÁN - THANG ĐIỂM
Môn thi: NGỮ VĂN (Đáp án - Thang điểm gồm có 02 trang)
--------------------------------
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2015 ĐÁP ÁN - THANG ĐIỂM
Môn thi: NGỮ VĂN (Đáp án - Thang điểm gồm có 02 trang)
ĐỌC HIỂU 3,0
1 Đoạn thơ được viết theo thể thơ tự do. 0,25
2
Cuộc sống gian khổ và hiểm nguy trên đảo của người lính được miêu tả qua những
từ ngữ, hình ảnh: trần trụi giữa trời, lều bạt, gian nan, có người ngã trước miệng cá
mập, có người bị vùi dưới cơn bão dữ tợn...
0,25
3
- Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ là so sánh. (0,25 điểm)
- Hiệu quả: làm nổi bật vẻ đẹp của những quần đảo; thể hiện tình yêu, niềm tự
hào về biển đảo. (0,25 điểm)
0,50
4 Bày tỏ được tình cảm chân thành, sâu sắc dành cho những người lính đảo. 0,50
5 Phương thức biểu đạt chính là nghị luận. 0,25
6 Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa của nạn bạo lực xuất hiện gần đây là do bệnh vô
cảm, do sự xuống cấp nghiêm trọng về ý thức nhân văn.
0,25
7 Thái độ của tác giả khi bàn về hiểm họa vô cảm: lo ngại, trăn trở... 0,50
I
8
Thể hiện được suy nghĩ chân thành, sâu sắc trước hiện tượng: có những người
“chỉ lo túi tiền rỗng đi nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô
héo dần”.
0,50
LÀM VĂN
1 Viết bài văn nghị luận bày tỏ suy nghĩ về vấn đề: Việc rèn luyện kĩ năng
sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức
3,0
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển
khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,50: Việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập
luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hành
động
-Giải thích: Từ việc giải thích khái niệm kĩ năng sống và kiến thức, thí sinh nêu
khái quát nội dung ý kiến.
- Bàn luận
+ Khẳng định ý kiến nêu ra là đúng hay sai, hợp lí hay không hợp lí.(0.25)
+ Bày tỏ thái độ, suy nghĩ về ý kiến bằng những lí lẽ, dẫn chứng phù hợp,
có sức thuyết phục.
1,25
- Bài học nhận thức và hành động: Rút ra bài học phù hợp cho bản thân. 0,25
d. Sáng tạo 0,25 Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
2
Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích. Từ đó,
bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của Nguyễn
Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
4,0
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển
khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,50
Nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích; cách nhìn nhận cuộc sống và
con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và
vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích và nhân vật người đàn bà
hàng chài. (0.5)
- Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích: cuộc đời, số
phận (nghèo khổ, bất hạnh...); tính cách, phẩm chất (cam chịu, giàu đức hi sinh,
thấu trải lẽ đời...); nghệ thuật xây dựng nhân vật... (1.25)
- Bình luận về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh
Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa: (0.75)
+ Khám phá bản chất cuộc sống và con người ở góc độ thế sự bằng cái
nhìn đa diện, nhiều chiều (cuộc sống của người dân chài còn nhiều nghịch lí,
nhân vật người đàn bà vừa nhẫn nhục đến mức phi lí vừa có những phẩm chất
đẹp đẽ...).
+ Đánh giá về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn trong tác phẩm.
d. Sáng tạo 0,50
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
ĐIỂM TOÀN BÀI THI : I + II = 10,00 điểm
--------- Hết ---------
TO - Cô Lý Thị Tú Anh, giáo viên Trường THPT Vĩnh Viễn (TP.HCM) cho rằng để đạt điểm trung bình thì không khó nhưng điểm khá giỏi không dễ vì đòi hỏi nhiều kiến thức nâng cao, vận dụng riêng của người học.
Trả lờiXóaThí sinh thi môn Văn tại điểm thi THCS Trương Công Định, Q. Bình Thạnh, TP.HCM - Ảnh: THANH TÙNG
Thí sinh thi môn Văn tại điểm thi THCS Trương Công Định, Q. Bình Thạnh, TP.HCM - Ảnh: THANH TÙNG
Theo cô Anh, phần đọc hiểu tuy dài nhưng đó là kiến thức cơ bản và không khó. Câu nghị luận xã hội thí sinh thường quen với việc tích lũy kiến thức, nay phải thêm kỹ năng sống, điều này đỏi hỏi học sinh phải có kiến thức xã hội cũng như kỹ năng để làm bài.
Riêng phần nghị luận văn học, cảm nhận về hình ảnh người đàn bà trong "Chiếc thuyền ngoài xa" từ đó đưa ra quan điểm về cuộc sống và con người, là kiến thức cơ bản, các em đã được học trên lớp.
"Riêng phần bình luận về cách nhìn nhận về cuộc sống và con người đòi hỏi học sinh phải có ý kiến riêng, nâng cao hơn, để đạt điểm 8 là khó", cô Anh nói.
Một số giáo viên môn văn ở TP.HCM thì nhận định đề quá dài. Theo cô Hoàng Thị Thu Hiền, giáo viên môn văn, Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, TPHCM câu 1 là câu đọc - hiểu quá dài một cách không cần thiết (chiếm hơn 1 trang giấy A 4).
Tuy nhiên, cũng theo cô Hiền, câu 1 cũng là câu thể hiện rõ nhất chủ trương đổi mới cách ra đề thi môn văn của Bộ GD-ĐT, đó là chú trọng kỹ năng đọc - hiểu của thí sinh. Thế nên, đề thi đã lấy văn bản ngoài sách giáo khoa.
Thầy Nguyễn Đức Hùng - giáo viên Trung tâm luyện thi Vĩnh Viễn - cho rằng đề thi đảm bảo yêu cầu xét tốt nghiệp THPT với các nội dung thí sinh có thể làm được 4 đến 5 điểm và cũng có các yêu cầu nâng cao để xét tuyển ĐH, CĐ.
Phần đọc hiểu với đoạn thơ gợi lên cảm xúc về tình cảm của người dân dành cho các chiến sĩ. Phần văn xuôi đề cập đến vấn đề thực tế của cuộc sống: sự thờ ơ, vô cảm với các vấn đề, hiện tượng xung quanh. Phần này khó hơn phần thơ và đây là yếu tố phân loại thí sinh.
Câu nghị luận xã hội đề cập đến một hiện tượng khác của xã hội: mọi người chỉ tập trung tích lũy kiến thức mà chưa chú trọng rèn luyện kỹ năng, nhất là ở trường phổ thông. Hai vấn đề này cần đồng đẳng với nhau và cũng là “đất” để thí sinh bày tỏ quan điểm của mình.
Câu nghị luận văn học quen thuộc nhưng ý thứ nhất là kiến thức giáo khoa dành cho học sinh phổ thôg. Ý thứ 2 bình luận quan điểm là dành cho học sinh khá, phân loại cho việc xét tuyển ĐH, CĐ.
Theo thầy Hùng, phần nghị luận văn học (câu cuối cùng) lại không thể hiện được chủ trương trên vì cả câu hỏi chiếm 4 điểm nhưng chỉ gói gọn trong một tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
"Với đề thi này, thí sinh có thể làm được 4, 5 điểm nhưng điểm 7, 8 là rất khó, phải khá giỏi trờ lên mới có thể đạt được", thầy Hùng nói.
Đề nghị luận theo lối mòn xưa cũ
Một giáo viên môn văn nổi tiếng ở quận 3 (đề nghị không nêu tên) đã nhận định: “Câu hỏi về nghị luận văn học ra theo kiểu lối mòn xưa cũ, không gợi mở, kích thích được sự sáng tạo của thí sinh. Không những thế, nó còn cổ súy cho phong trào học tủ của học sinh. Cách ra đề như thế này sẽ không thể chọn lựa được những học sinh có năng lực thực sự vào đại học, nó chỉ đạt được mục tiêu thứ nhất giúp cho học sinh đậu tốt nghiệp THPT mà thôi"
MINH GIẢNG - H.HG