TS ĐH 2011: Đề thi - Gợi ý Môn Văn Khối C


ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC NĂM 2011
Môn: NGỮ VĂN; Khối: C
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm)
Câu I. (2,0 điểm)
Trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn những bản tuyên ngôn nào? Việc trích dẫn đó có ý nghĩa gì?
Câu II. (3,0 điểm)
Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn.
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.
PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo Chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân.
Câu III.b. Theo Chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
            Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
            Cặp vợ chồng yêu thương nhau góp nên hòn Trống Mái
            Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
            Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
            Những con rồng năm im góp dòng sông xanh thẳm
            Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
            Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
            Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
            Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
            Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
            Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
            Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
                        (Đất Nước – Trích trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm)
                        Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 117 – 118)
            Phân tích đoạn thơ trên để làm rõ những cảm nhận riêng, độc đáo về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
------------------------------
BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu I. Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần nêu được những nội dung cơ bản sau :
            a. Trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn :
            - Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776.
            - Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791.
            b. Ý nghĩa của việc trích dẫn:
            - Tác giả tạo một cơ sở pháp lý vững chắc cho bản tuyên ngôn để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam là “một lẽ phải không ai chối cãi được”, đồng thời tạo tiền đề cho lập luận nêu ở phần sau.
            - Tác giả thể hiện thái độ trân trọng tinh hoa văn hóa nhân loại, đề cao truyền thống bình đẳng, nhân đạo, tư tưởng dân chủ tiến bộ của hai nước Pháp và Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.
            - Tác giả muốn từ vấn đề nhân quyền để “suy rộng ra” và phát triển thành quyền dân tộc. Đây là đóng góp lớn về tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
            - Tác giả cũng chỉ ra cho thực dân Pháp thấy rõ: nếu chúng âm mưu tái chiếm nước ta là xúc phạm đến nguyên lý về quyền độc lập tự do mà chính tổ tiên của chúng đã nêu ra trước kia. Đây là lối tranh luận “lấy gậy ông đập lưng ông” thể hiện thái độ vừa kiên quyết vừa khôn khéo của tác giả. Mặt khác, khi đặt ba bản tuyên ngôn ngang nhau, tác giả còn bộc lộ sâu sắc niềm tự hào dân tộc.
Câu II: Thí sinh cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản của câu hỏi: Viết bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về ý kiến: biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng xấu hổ còn quan trọng hơn.
            Thí sinh có thể trình bày bài viết theo những nội dung cụ thể khác nhau. Sau đây là một số gợi ý :
            - Giới thiệu ý kiến của đề bài: biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng xấu hổ còn quan trọng hơn.
            - Giải thích :
            + Tự hào : lấy làm hài lòng, hãnh diện về cái tốt đẹp mà mình có.
            + Xấu hổ : cảm thấy hổ thẹn khi thấy mình có lỗi hoặc kém cỏi trước người khác.
            + Ý kiến : thể hiện quan điểm của người phát biểu về quan hệ của tự hào với xấu hổ : tự hào thì cần thiết, xấu hổ quan trọng hơn.
            - Phân tích, chứng minh :
            + Tự hào là cần thiết :
            × Người tự hào thường là người hiểu rõ bản thân, nhất là sở trường, các tốt đẹp của bản thân. Do đó cũng dễ là người có thái độ tự tin.
            × Tự hào thường mang lại những cảm xúc tích cực. Nó giúp người ta dễ phấn khởi trong hành động. Do đó cuộc sống dễ đạt được những thành công.
            + Biết xấu hổ còn quan trọng hơn :
            × Biết xấu hổ, người ta dễ tránh những lỗi lầm sai trái.
            × Biết xấu hổ, người ta dễ nổ lực vươn lên để khắc phục những kém cỏi của bản thân.
            × Biết xấu hổ, người ta dễ có lòng khiêm tốn, có tinh thần trách nhiệm, có lương tâm.
            × Biết xấu hổ là một trong những biểu hiện của lòng tự trọng, của nhận thức về phẩm giá con người.
            × Biết xấu hổ, người ta cũng dễ biết kiềm chế bản thân trước các tình huống.
            - Phê phán : Trong thực tế, có những người không biết tự hào, cũng chẳng tự trọng, vô cảm với mình, với người. Nguyên nhân thường do thiếu nhận thức, thiếu kỹ năng sống.
            - Bình luận : Tự hào, tự trọng (mà biết xấu hổ là một biểu hiện của nó) là những phẩm chất đáng quý mà mỗi người cần có, trong đó cần nhận thức tự hào là cần thiết nhưng tự trọng thì quan trọng hơn.
            - Làm sao để có lòng tự hào và tự trọng :
            + Cần có hiểu biết và ý thức về giá trị con người và cuộc sống.
            + Cần có hiểu biết về ý nghĩa quan trọng của phẩm giá cá nhân.
            + Cần nỗ lực phấn đấu rèn luyện trau dồi những phẩm chất và kỹ năng sống cần thiết để sống tốt.
Câu III.a:
1.      Yêu cầu về kĩ năng:
_ Biết cách làm một bài nghị luận văn học để cảm nhận tác phẩm về nội dung, nghệ thuật
_ Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp, dùng từ
2.      Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết, thí sinh trình bày theo nhiều cách nhưng cần nêu được những ý chính sau:
1.      Tác giả, tác phẩm:
-         Tác giả: Nguyễn Tuân là nhà văn mang phong cách tài hoa, uyên bác
-         Tác phẩm: “Chữ người tử tù” rút ra từ tập “Vang bóng một thời” (1940), không chỉ thành công về nội dung mà còn có những nghệ thuật đặc sắc, nhất là tạo tình huống truyện độc đáo.
2.      Phân tích cụ thể:
-         Tìm hiểu về tình huống truyện trong tác phẩm tự sự, trong “Chữ người tử tù”
+ Sự gặp gỡ giữa những tâm hồn yêu cái đẹp trong hoàn cảnh éo le, đầy kịch tính.
+ Quản ngục, thơ lại là người có quyền trong nhà tù – Huấn Cao, phạm nhân đều hướng về cái đẹp của nghệ thuật thư pháp
-         Khai thác tình huống truyện xoay quanh hai tuyến nhân vật:
+ Huấn Cao:
·        Tài viết chữ đẹp hấp dẫn quản ngục, ông xem việc có được chữ của ông Huấn là có báu vật trên đời
·        Tâm: yêu nước, hiên ngang, bất khuất của người có tài, “biệt nhỡn liên tài” để tìm người giữ chữ cho đời (chọn dẫn chứng và phân tích để làm bật lên những ý trên)
+ Quản ngục, thơ lại:
·        Hai nhân vật này hợp lại để xin và giữ chữ bằng cái tâm hướng về cái đẹp
·        Yêu cái đẹp đến độ dám chơi chữ với tử tù (chọn dẫn chứng và phân tích)
+ Và kết thúc của tình huống truyện là “cảnh cho chữ lạ lùng chưa từng có”:
·        Cho chữ ở nhà ngục tử tù bật lên sự tồn tại vĩnh hằng của thư pháp ngay chốn tử tù
·        Sự thay bậc đổi ngôi: người tù thì đứng, dù cổ mang gông, chân vướng xiềng vẫn ung dung cho chữ, còn thơ lại, quản ngục run run, khúm núm.
·        Nhà tù tối tăm, hôi hám, dơ bẩn nhưng sáng rực với bó đuốc soi rọi trên ba cái đầu chụm vào nhau cùng hướng về tấm lụa bạch và mùi thơm của thoi mực.
·        Sức mạnh của thư pháp cảm hứng kẻ lầm đường lạc lối về với nẻo chính đường ngay (minh họa và phân tích)
-         Cảm nhận chung: Nghệ thuật tạo tình huống truyện trong “Chữ người tử tù” làm bật lên tư tưởng, nội dung của tác phẩm “Chữ người tử tù”.
3.      Đánh giá tác giả, nghệ thuật tạo tình huống truyện của tác phẩm.
Câu III.b.
1) Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích :
     - Trường ca Mặt đường khát vọng viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm ở miền Nam: nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn thơ trích thuộc phần đầu của chương V.
            - Tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” được thể hiện tập trung qua đoạn thơ :
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”
 chi phối cách cảm nhận của nhà thơ về các phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá … của đất nước.
2) Phân tích đoạn thơ :
a. Tám câu đầu: Tác giả cảm nhận Đất Nước qua những địa danh, thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống, số phận, tính cách của nhân dân, được cảm thụ qua tâm hồn nhân dân. Chú ý khả năng gợi cảm nghĩ, liên tưởng, tưởng tượng của các hình ảnh, cảnh vật: tình nghĩa thuỷ chung, thắm thiết (hình ảnh núi Vọng Phu, hòn Trống Mái); sức mạnh bất khuất (chuyện Thánh Gióng); cội nguồn thiêng liêng (hướng về đất Tổ Hùng Vương); truyền thống hiếu học (cách cảm nhận về núi Bút non Nghiên); Đất Nước tươi đẹp (cách nhìn dân dã về núi Con Cóc, Con Gà, về dòng sông Cửu Long gợi dáng những con rồng)vv… Đất Nước hiện lên vừa gần gũi, vừa thiêng liêng.
            b. Bốn câu cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát: sự hoá thân của Nhân Dân vào bóng hình Đất Nước. Nhân Dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất này.
    c. Trong đoạn thơ, tác giả đã sử dụng rất nhiều địa danh quen thuộc, những chất liệu văn hoá dân gian để nói về Đất Nước. Theo Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước được  hình thành từ công sức của nhân dân, của những con người lao động bình dị. Đây cũng là biểu hiện chiều sâu tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” trong cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.
3) Đánh giá chung :
     - Đoạn thơ đã làm rõ những cảm nhận riêng, độc đáo về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm: không thiêng liêng hóa Đất Nước như trong thơ xưa, mà bằng những hình ảnh thơ rất cụ thể, đời thường, thấm đẫm chất liệu văn hóa dân gian nên Đất Nước gần gũi, gắn liền với mọi con người Việt Nam hôm nay.
     - Ra đời trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ của cả nước đang ác liệt, bài thơ có tác dụng như một sự thức tỉnh đối với tuổi trẻ các thành thị miền Nam về tình yêu quê hương đất nước, ý chí đấu tranh bảo vệ độc lập tự do.
Nguyễn Hữu Dương, Hà Phương Minh
(TT Luyện thi Đại học Vĩnh Viễn – TP.HCM)
           -------------------------

TS ĐH 2011: Đề thi - Gợi ý Môn Văn Khối D


ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC NĂM 2011
Môn: NGỮ VĂN; Khối: D
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm)
Câu I. (2,0 điểm)
Trong đoạn trích bài thơ Việt Bắc (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009), Tố Hữu đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật giàu tính dân tộc nào? Những phương tiện đó phù hợp với việc diễn tả tình cảm gì của người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc?
Câu II. (3,0 điểm)
Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà trước hết hãy là người có ích.
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên.
PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo Chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
            “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn.
            Anh/chị hãy phân tích khung cảnh phố huyện và tâm trạng của nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
                                    Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
                                    Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
                                    Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
                                    Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
                                    Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
                                    Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.”
                                                (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên, Ngữ văn 12 Nâng cao,
                                                Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 106)
            Phân tích đoạn thơ trên để thấy được chất suy tưởng triết lí và nghệ thuật sáng tạo hình ảnh của Chế Lan Viên.
 ---------------------------------------------------
BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu I: Thí sinh trả lời ngắn gọn, đảm bảo các ý sau:
1.      Tố Hữu đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật giàu tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc:
_ Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển của dân tộc được Tố Hữu sử dụng điêu luyện kết hợp với lối hát đối đáp giao duyên vốn quen thuộc trong ca dao dân ca
_ Tác giả đã chọn lựa và sử dụng thật linh hoạt và đầy sáng tạo cặp đại từ nhân xưng vốn quen thuộc trong ca dao dân ca “mình – ta”
_ Tác giả đã sử dụng những biện pháp tu từ truyền thống (so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, cường điệu, điệp từ, điệp ngữ …) cũng như sử dụng những từ láy và cách nói quen thuộc của thơ ca dân gian đã tạo nên nhạc tính dân tộc của bài thơ như giọng điệu tâm tình.
2.      Những phương tiện nghệ thuật trên rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm lớn, ân tình cách mạng (tình quân dân “cá nước” trong chín năm kháng chiến gian khổ mà hào hùng ở núi rừng Việt Bắc, tình cảm đối với Đảng và Bác Hồ kính yêu) giữa người cán bộ kháng chiến về xuôi và nhân dân (người ở lại) Việt Bắc, làm cho tình cảm giữa họ kín đáo mà không xa vời, gắn bó thắm thiết, mặn nồng sâu sắc mà không gượng gạo, không sỗ sàng.
Câu II : Thí sinh cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản của câu hỏi : Viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về ý kiến : Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà trước hết hãy là người có ích.
Thí sinh có thể trình bày bài viết theo những nội dung cụ thể khác nhau. Sau đây là một số gợi ý :
            - Giới thiệu ý kiến của đề bài: Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà trước hết hãy là người có ích.
            - Giải thích :
            + Người nổi tiếng : là người có tiếng tăm được nhiều người biết đến.
            + Người có ích : là người có cuộc sống có ích, có ý nghĩa, cũng cần thiết và có giá trị đối với người khác, gia đình, xã hội.
            + Ý kiến là một lời khuyên về một trong những mục đích sống của con người : hãy sống với một mục đích sống chân chính đừng cố gắng theo đuổi tiếng tăm, danh vọng mà hãy quan tâm đến giá trị của cuộc sống, nhất là với mọi người.
            - Phân tích chứng minh :
            + Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng :
            × Tiếng tăm, danh vọng :  thường không phải là mục đích cao đẹp nhất của cuộc sống.
            × Danh vọng có thể làm tha hóa con người, làm băng hoại đạo đức và đẩy con người ta vào tội lỗi.
            × Để cố trở thành người nổi tiếng có những người đã đi vào những con đường bất chính, sử dụng những phương cách xấu xa. Do đó, nổi tiếng như thế chỉ là vô nghĩa.
            + Trước hết, hãy là người có ích :
            × Người sống có ích mang lại nhiều ích lợi cho người khác trong cuộc sống.
            × Sống có ích sẽ làm thăng hoa giá trị con người, thăng hoa giá trị cuộc sống.
            × Người có ích dù không được nổi tiếng nhưng cuộc sống của họ là cần thiết, có giá trị, có ý nghĩa đối với người khác, gia đình, xã hội. Ngay cả trong quan niệm của người xưa về “chí nam nhi”, chữ “danh” (Phải có danh gì với núi sông) luôn gắn với thực chất của hành động (Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ).
            - Bình luận :
+ Nổi tiếng cũng có mặt tốt, có tác dụng tốt. Tiếng nói của người nổi tiếng thường có tác động nhiều hơn, lớn hơn đối với người khác, xã hội.
+ Nhưng đừng cố gắng chạy theo việc trở thành người nổi tiếng bằng mọi cách vì điều đó mang lại nhiều tác hại. Hãy để cho tiếng tăm được đến một cách tự nhiên bằng hành động có thực chất: hữu xạ tự nhiên hương.
+ Làm sao để là người có ích :
× Hãy sống có lý tưởng;
× Hãy sống có đạo đức, có trách nhiệm;
× Hãy sống vì gia đình, vì xã hội, vì cộng đồng;
+ Ý kiến này là một biểu hiện cụ thể của vấn đề danh và thực trong cuộc sống con người. Giải quyết tốt mối quan hệ của vấn đề nổi tiếng và có ích, của danh và thực, người ta sẽ dễ có cuộc sống bình an, hạnh phúc, chân chính.
- Đây là một ý kiến có giá trị đúng đắn. Đồng thời nó cũng là một lời khuyên rất có tính thời sự, nhất là trước hiện tượng một bộ phận giới trẻ ngày nay đang có xu hướng tìm sự nổi tiếng bằng mọi giá.
Câu III.a.
1.Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
- Thạch Lam là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng có một gương mặt riêng so với các nhà văn của Tự lực văn đoàn.  Văn của Tự lực văn đoàn thường đượm nỗi buồn lãng mạn còn văn của Thạch Lam lại chất chứa những nỗi đau hiện thực. Nó như một thứ “hương hoàng lan” được chưng cất từ những nỗi đời.
- Truyện ngắn Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn (1938), rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam. Đó là kiểu truyện ngắn trữ tình đượm buồn. Nét phong cách này thể hiện sâu sắc ở khung cảnh phố huyện và tâm trạng của nhân vật Liên trong tác phẩm.
            2.Phân tích làm rõ ý kiến
a.Giải thích ý kiến: Truyện ngắn của Thạch Lam là kiểu truyện ngắn trữ tình đượm buồn. Vì truyện của ông là kiểu truyện tâm tình, dường như không có cốt truyện; giàu cảm xúc, nhẹ nhàng mà thấm thía như một bài thơ. Truyện Hai đứa trẻ bộc lộ niềm cảm thương chân thành của nhà văn với cuộc sống chìm khuất, mòn mỏi, quẩn quanh của những con người nhỏ nhoi nơi phố huyện tăm tối, cùng sự trân trọng những ước mong khiêm nhường mà thiết tha của họ về một cuộc sống trong sáng, tốt đẹp hơn.
b.Phân tích làm rõ ý kiến
Bức tranh phố huyện được miêu tả theo trình tự thời gian: Cảnh phố huyện lúc chiều xuống. Cảnh phố huyện lúc đêm về. Cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu khuya đi qua. Liên là một cô gái nhỏ. Vì cha mất việc cả nhà phải chuyển từ Hà Nội về sinh sống ở một phố huyện nghèo. Tuy còn nhỏ nhưng Liên đã tỏ ra đảm đang, thay mẹ trông coi một quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống và Liên cũng rất chu đáo khi thay mẹ chăm sóc em là bé An. Đặc biệt Liên là một cô gái nhỏ dịu hiền, nhân hậu, đa cảm. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên được khắc họa qua ba cảnh phố huyện, như ba nấc thang tâm lí: chiều muộn, đêm về và chuyến tàu khuya qua phố huyện.
- Trước hết là tâm trạng buồn man mác của Liên, khi chiều về, phố huyện hiện lên trong sự nghèo khổ, xơ xác:
            + Với cảm xúc và bút pháp lãng mạn, thì cảnh thiên nhiên phố huyện mang một vẻ đẹp trữ tình thơ mộng.
+ Với cảm xúc và bút pháp hiện thực thì cuộc sống xã hội nơi phố huyện lại là bức tranh nghèo khổ, xơ xác, tăm tối. Cái áo khoác ngoài thơ mộng của thiên nhiên cũng không che lấp nổi cảnh ngày tàn, cảnh chợ tàn và cảnh những kiếp người tàn.
 + Liên tuy không lam lũ vất vả như những mảnh đời kia nhưng là những số phận đáng thương nhất. Vì quá khứ tươi đẹp của hai chị em Liên đã thuộc về dĩ vãng. Hiện tại thì buồn tẻ, tăm tối, bế tắc. Chúng có cái để so sánh, để cảm nhận cuộc sống tăm tối tẻ nhạt của phố huyện. Đúng là cuộc sống phố huyện cứ đang tàn dần, lụi dần trong đói nghèo lam lũ, quẩn quanh. Những tâm hồn mới lớn như chị em Liên, chứng kiến những cảnh đó không buồn sao được. Nhưng vì còn là những đứa trẻ nên nỗi buồn cũng chỉ “man mác”, đọng trong đôi mắt Liên “bóng tối ngập đầy dần”. Và cái buồn của chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của Liên.
- Liên càng buồn thấm thía hơn khi đêm về, phố huyện chìm trong bóng tối và cuộc sống cứ lặp lại đơn điệu, buồn tẻ, bế tắc.
+ Về đêm phố huyện là sự tương tranh giữa bóng tối và ánh sáng. Màn đêm buông xuống, bóng tối cứ lan dần từng con đường nhỏ, từng ngõ xóm, để rồi nhấn chìm phố huyện trong bóng tối dày đặc. Ánh sáng phố huyện cũng nhiều: có ánh sáng của thiên nhiên (ánh sao, ánh đom đóm), có ánh sáng của cuộc sống lao động nhưng chỉ là những khe, chấm, hột…tất cả đều quá nhỏ nhoi, yếu ớt trước vũ trụ thăm thẳm bao la ngập trong bóng tối. Nó không đủ thắp sáng phố huyện mà dường như chỉ càng tôn lên màn tối dày đặc bao phủ phố huyện nghèo.
+ Khi đêm về cuộc sống phố huyện cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ, bế tắc. Ngày hôm nay là sự lặp lại y nguyên những gì đã diễn ra hôm qua và sẽ lặp lại ở ngày mai. Mẹ con chị Tí lại dọn hàng nước, gia đình bác xẩm lại xuất hiện với tiếng đàn ế khách. Bác phở Siêu lại gánh phở đi bán…Phố huyện như một sân khấu cuộc đời chỉ độc diễn một màn buồn tẻ, không có sự thay đổi cả người lẫn cảnh. Đó là cuộc sống cứ “mốc lên, mòn đi, rỉ ra, mục ra” không lối thoát (Sống mòn- Nam Cao). Nó gợi liên tưởng tới hình ảnh “chiếc ao đời phẳng lặng” trong truyện ngắn Tỏa nhị kiều của Xuân Diệu. Nhà văn không trực tiếp tả tâm trạng này của Liên. Nhưng cảnh vật và cuộc sống phố huyện tăm tối, tẻ nhạt trong đêm lại được cảm nhận qua tâm trạng của Liên. Sống trong hoàn cảnh như vậy, chị em Liên sao không khắc khoải chờ đợi một cái gì đó dù mơ hồ, nỗi buồn dường như thấm thía hơn. Nhưng không hy vọng thì làm sao sống nổi. Và chuyến tàu đêm đã thắp lên niềm hy vọng đó.
- Cảnh chuyến tàu khuya và tâm trạng buồn vui của Liên
+ Trong cả chuỗi thời gian dài buồn tẻ thì chuyến tàu đêm qua phố huyện là cả một niềm vui lớn với hai chị em Liên. Hai đứa trẻ đêm nào cũng náo nức thức chờ tàu, không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu vật chất. Chúng không chờ tàu để bán hàng, dù mẹ vẫn dặn cố thức đợi chuyến tàu để bán hàng. Hai chị em chờ tàu là xuất phát từ nhu cầu cuộc sống tinh thần. Khi tàu đến Liên và An đứng cả dậy, hướng về phía con tàu và khi nó đi rồi Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng”.
+ Con tàu đến rồi lại đi nhanh để lại trong hai đứa trẻ nỗi buồn nhớ tiếc. Tàu đi rồi phố huyện lại trở về với đêm tối và sự tĩnh lặng. Bóng đêm và sự tĩnh lặng càng nặng nề hơn. Niềm vui của hai đứa trẻ vừa lóe lên lại bị dập tắt như đám than bỗng bùng lên cháy rực rồi lụi tàn hẳn trong đêm. Nỗi chờ đợi bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều đổ xuống, rồi đêm về và phố huyện vào khuya. Hai đứa trẻ khắc khoải chờ đợi từng bước đi của thời gian, từng bước xích lại gần của chuyến tàu: tàu sắp đến, tàu vụt qua, tàu đi rồi chỉ còn chấm đèn ghi nhỏ xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đêm tối lại bao bọc phố huyện.
3.Đánh giá
- Miêu tả khung cảnh phố huyện buồn, nghèo nàn, tẻ nhạt, bế tắc và tâm trạng của hai đứa trẻ, đặc biệt là Liên một cách trực tiếp và gián tiếp, qua thực tại và hồi ức đan xen; miêu tả bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, giàu chất thơ; nhà văn bộc lộ niềm xót thương những kiếp người đói nghèo cơ cực, sống quẩn quanh bế tắc trong xã hội cũ.
- Từ đó tác giả như muốn lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn, nhen lên trong họ ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khát khao thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ. Truyện ngắn Hai đứa trẻ đã thể hiện sâu sắc cái tài và cái tâm của nhà văn Thạch Lam. Cái tài của Thạch Lam là sở trường về truyện ngắn và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. Ông đã đem đến cho văn học dân tộc kiểu truyện ngắn trữ tình đượm buồn, truyện ngắn tâm tình. Truyện dường như không có cốt truyện, nhẹ nhàng mà thấm thía, giàu cảm xúc mà cũng giàu chất triết lí. Cái tâm của Thạch Lam là tình người sâu sắc. Thạch Lam không chỉ thấu hiểu, cảm thương những đau khổ thiệt thòi của những số phận nhỏ bé bị lãng quên khi miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên, mà còn thấu hiểu đồng cảm với những khát vọng chân chính của họ, dù nó mới chỉ là những khát khao rất đỗi bình dị, mơ hồ.
Câu III.b.
I. Yêu cầu về kỹ năng :
            - Biết cách làm một bài nghị luận văn học để cảm nhận đoạn thơ về nội dung, nghệ thuật.
            - Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp, dùng từ.
II. Yêu cầu về kiến thức : Trên cơ sở hiểu biết, thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần đảm bảo các ý chính sau :
1) Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn thơ :
- Chế Lan Viên là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới với phong cách thơ suy tưởng, giàu triết lí và nghệ thuật tạo hình sâu sắc.
- “Tiếng hát con tàu”     ® trích từ trong tập “Ánh sáng và phù sa”(1960).
                                    ® trích dẫn đoạn thơ (nêu cảm nhận chung về đoạn thơ - trình tự của mạch thơ)
2) · Phân tích cụ thể :
* Đoạn 1 :        “Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
                                    Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường.
                                    Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
                                    Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.”
            - Nội dung chủ yếu : công lao của Tây Bắc trong mười năm nhưng sức lan tỏa là “nghìn năm sau”. Phân tích hình ảnh: ngọn lửa, thời gian: mười năm - nghìn năm, cách xưng danh “Con – Mẹ”.
            - Nghệ thuật đặc sắc : giọng thơ như lời tâm sự, mang ý nghĩa triết lí sâu sắc (mười năm – nghìn năm, ngôn từ: Mẹ - Đất nước, Tây Bắc).
            * Đoạn 2 : Hành trình trở về Tây Bắc
                                    “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
                                    Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
                                    Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
                                    Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.”
            - Nội dung chủ yếu : trở về với nhân dân, Việt Bắc là sự cần thiết nhất trong cuộc sống: cội nguồn, môi trường để con người phát triển tài năng, thỏa mãn những nhu cầu vật chất lẫn tinh thần.
            - Nghệ thuật đặc sắc : biện pháp tu từ so sánh, ngôn từ tạo hình, biểu cảm.
            · Cảm nhận chung : Đoạn thơ mang phong cách suy tưởng và ý nghĩa triết lí sâu sắc “Uống nước nhớ nguồn” và nhất là ngôn từ tạo hình, tạo cảm.
            3) Đánh giá về tác giả, đoạn thơ để rút ra bài học triết lí :
                                    “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
                                    Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”
                                                                        (Chế Lan Viên)
Nguyễn Đức Hùng, Hồ Kỳ Thuận
(TT Luyện thi Đại học Vĩnh Viễn – TP.HCM)

----------------------------------------
Đề Văn khối D: Hay, phù hợp chương trình THPT
Đề thi hay, câu hỏi phù hợp với chương trình môn Ngữ văn THPT. Các câu hỏi đều hướng tới sự tư duy sáng tạo, kích thích được hứng thú của thí sinh khi làm bài. Có thể đề hơi dài.
Câu 1: Vẫn hỏi kiến thức cơ bản về phương diện nghệ thuật giàu tính dân tộc của đoạn trích bài thơ Việt Bắc, tuy nhiên nếu chỉ học gạo, khó có thể đạt điểm tối đa.
Câu 2: Vấn đề đưa ra bàn luận rất gần gũi với lứa tuổi vừa tốt nghiệp phổ thông, lại gợi hứng thú để thí sinh bộc lộ chân thành suy nghĩ của mình, khi ở lứa tuổi này các em rất hay thích các thần tượng; mặt khác nó hướng các em biết suy nghĩ nghiêm túc, phù hợp về hướng phấn đấu của bản thân.
Câu 3a: Cách hỏi hay nhưng không đánh đố. Thí sinh có kiến thức vẫn phải tư duy mới hướng việc giải quyết vấn đề vào cách làm rõ một nét phong cách truyện ngắn của Thạch Lam qua khung cảnh phố huyện và tâm trạng của nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Câu 3b: Đòi hỏi không chỉ phân tích một đoạn thơ trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên mà thí sinh còn phải biết chỉ ra và đánh giá được chất suy tưởng triết lý và nghệ thuật sáng tạo hình ảnh của Chế Lan Viên trong đoạn thơ. Yêu cầu này có tính phân loại cao và phù hợp với thí sinh học chương trình nâng cao.
Giáo viên Hà Phương Minh(Trung tâm luyện thi ĐH Vĩnh Viễn, TP.HCM)