Kinh nghiệm thi khối D

Khối D: bám nội dung quan trọng của từng môn

AT - Bạn Nguyễn Mạnh Toàn , thủ khoa khối D khoa kinh tế (nay là Trường ĐH Kinh tế - luật) ĐH Quốc gia TP.HCM kỳ thi tuyển sinh ĐH năm 2009, nói về phương pháp ôn thi của mình:

Ở ba môn thi, để dễ nhớ, mình chuẩn bị những tờ giấy và lấy bút màu ghi lên đó nội dung kiến thức cơ bản cần nắm của từng môn, từng chương, từng bài học cụ thể, các vấn đề quan trọng không thể thiếu trong việc hệ thống kiến thức của từng môn. Sau đó, mình dán những tờ giấy đó lên tường, lên cửa, lên bàn học, để ngày nào cũng nhìn thấy và có thể đọc nhanh qua để kích thích trí nhớ về các nội dung mà mình đã học. Nhờ đó mình hệ thống được các kiến thức quan trọng.

* Ở môn ngữ văn, khi ôn tập nhiều bạn vẫn sử dụng văn mẫu để bổ sung kiến thức ngoài sách giáo khoa. Tuy nhiên, việc sử dụng văn mẫu như thế nào trong bài thi để nó không là "con dao hai lưỡi"?


* Bạn đã phân chia thời gian ôn tập như thế nào để đạt hiệu quả cao?

- Năm trước, sau kỳ thi tốt nghiệp THPT, mình dành hai ngày nghỉ ngơi để chuẩn bị tinh thần cho “cuộc chiến” mới. Sau đó, mình đã phân chia thời gian ôn tập như thế này: Ngoài những buổi luyện thi trên lớp thì quãng thời gian còn lại phân chia: Sáng học toán, chiều học ngữ văn và tối học Anh văn.

Cứ thế đều đều cho đến những ngày giáp thi. Trong thời gian ôn tập nên có chế độ nghỉ ngơi hợp lý. Khi luyện đề một môn nào đó nếu thấy mệt thì nên nghỉ một tì để lấy lại tinh thần. Không nên học liên tục cho đến ngày thi, Trước kỳ thi nên nghỉ ngơi vài ngày vì lúc đó học thêm sẽ làm kiến thức rối thêm.

Có ba từ mình muốn nhắn gửi đến các bạn sắp vượt vũ môn kỳ thi tuyển sinh ĐH sắp tới: Cẩn thận, bình tĩnh và tự tin.



- Mình nghĩ các bạn không nên lạm dụng quá nhiều sách văn mẫu. Đúng là nếu không cẩn thận, văn mẫu sẽ biến thành "con dao hai lưỡi": một mặt nó bổ sung nhiều kiến thức bên ngoài sách giáo khoa cho bài văn phong phú, nhưng bên cạnh đó nó cũng làm cho ta dễ bị phụ thuộc vào chính nó.

Văn là sáng tạo và chỉ nên sử dụng các sách văn mẫu để tìm hiểu thêm về tác phẩm, nhưng khi làm bài phải triển khai theo ý của mình chứ đừng nên chép nguyên văn.

Ở môn học này, mình đã hệ thống bài học theo từng giai đoạn văn học cụ thể. Nắm rõ hoàn cảnh sáng tác, tác giả, tác phẩm, ý nghĩa nhan đề, nội dung cốt truyện... Mỗi bài, mình soạn ra những vấn đề cần nắm bắt như nội dung, nghệ thuật. Cần chú ý dẫn chứng văn học là một trong những yếu tố làm cho bài viết trở nên sinh động nên phải nhớ các dẫn chứng, lời thoại nhân vật, lời bình của các nhà văn khác về tác phẩm càng nhiều càng tốt và vận dụng trong các trường hợp cụ thể.

Kinh nghiệm của mình khi làm bài thi môn ngữ văn là làm hai câu nghị luận văn học trước, sau đó mới làm câu nghị luận xã hội. Bởi với dạng câu hỏi nghị luận văn học thì kiến thức gói gọn trong tác phẩm, còn nghị luận xã hội kiến thức rất đa dạng nên sẽ dễ sa đà vào đề tài quá nhiều mà quên đi các câu hỏi khác trong đề thi.

* Nhiều bạn cho rằng môn toán khối D nhẹ hơn toán khối A,B. Bạn có dành nhiều thời gian cho môn này?

- Đề thi toán khối D nhìn thì có vẻ nhẹ hơn đề thi toán của những khối khác. Tuy nhiên đừng vì thế mà chủ quan. Phải tăng cường giải đề thi để tạo ra cho mình các kỹ năng trong việc đưa ra hướng giải quyết nhanh nhất cho bài toán.

Giải càng nhiều đề thi sẽ giúp bạn thích nghi hơn với cách ra đề cũng như các kỹ năng làm bài, phân chia thời gian một cách hợp lý để không lúng túng trước đề thi thật. Việc giải đề thi cũng là một cách để ôn tập kiến thức môn toán, khi đó mình sẽ hiểu được phần nào mình còn chưa vững để củng cố thêm.

Việc ôn luyện môn toán cần có một quá trình dài, sĩ tử nên "lập trình" cho mình cách ôn tập toán ngay từ đầu. Nếu chỉ chờ đến thi mới học sẽ khó đem lại kết quả như mong muốn. Nên hệ thống lại các kiến thức đã học trải dài từ chương trình lớp 10 đến lớp 12. Trong mỗi chương nên vạch ra và phân loại các dạng bài, cách giải. Khi đã nắm vững các kiến thức cơ bản thì hãy tiến hành làm một số bài tập nâng cao để có nhiều kinh nghiệm làm bài. Vào phòng thi, khi đọc xong đề cần xác định câu nào dễ và chắc chắn nhất thì sẽ ưu tiên làm trước. Không nên làm các câu khó ngay từ đầu vì nếu làm không được sẽ ảnh hưởng đến tâm lý làm bài.

* Học cấp III ở Trường THPT An Nhơn (Bình Định), nơi bạn cho rằng "học tiếng Anh còn nhiều hạn chế". Bạn chia sẻ gì với những thí sinh gặp nhiều khó khăn trong điều kiện học tiếng Anh ở kỳ thi sắp tới?

- Cần phải chăm, đó là cách chủ yếu trong việc luyện thi môn tiếng Anh của mình. Đặc thù của tiếng Anh là môn thi tổng quát, kiến thức trải rộng trong đời sống nên cần phải có một cách học thật hợp lý. Đối với từ vựng tiếng Anh, mình phải học liên tục. Ngoài những vốn từ cơ bản trong sách giáo khoa, mình trau dồi thêm các vốn từ bên ngoài.

Môn học này cần chăm chỉ và siêng năng, phải kiên trì làm nhiều bài tập và các dạng đề thi thì mới nâng cao được kỹ năng làm bài. Đặc biệt, các kỹ năng đọc hiểu, ngữ pháp, từ vựng phải đầu tư nhiều thời gian để nâng cao. Nói chung, môn tiếng Anh càng làm bài tập nhiều càng tốt vì kiến thức văn phạm hay từ vựng đều rất đa dạng.

Mình có kinh nghiệm thế này ở việc làm bài thi môn tiếng Anh: Sau khi đọc đề xong thì nên chọn các câu thuộc phần phát âm, ngữ pháp, từ vựng làm trước. Phần đọc hiểu là phần khó nhất trong đề thi, mất nhiều thời gian nhất để làm bài vì thế nên chọn phần này để giải quyết sau cùng.

H.BÌNH tuoitre.vn thực hiện

Toàn bộ đề và đáp án chính thức TS lớp 10 tại TPHCM 2010

Dưới đây là tất cả đề và đáp án chính thức các môn thướng và môn chuyên trong kì thi tuyển sinh vào lớp 10 tại TP Hồ Chí Minh năm 2010

http://tuoitre.vn/Giao-duc/385834/Dap-an-chinh-thuc-ky-thi-tuyen-sinh-vao-lop-10.html

Đề-Gợi ý chấm Văn TS10 2010 tại Hà Nội

Phần I (7 điểm)
Cho đoạn trích:

“Con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt nhìn tôi như muốn hỏi là ai, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lệ: “Má! Má!”. Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”

(Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục 2009, tr 196)

Câu 1: Đoạn trích trên được rút từ tác phẩm nào, của ai? Kể tên hai nhân vật được người kể chuyện nhắc đến trong đoạn trích

Gợi ý:
- Đoạn văn trên được rút từ tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
- Tên hai nhân vật được nhắc tới trong đoạn trích là bé Thu và anh Sáu (cha của bé Thu)

Câu hỏi 2: Xác định thành phần khởi ngữ trong câu: “Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”

Gợi ý:

Thành phần khởi ngữ là “Còn anh” (học sinh có thể viết lại đoạn trích trên và gạch chân dưới thành phần khởi ngữ)

Câu 3: Lẽ ra cuộc gặp mặt sau tám năm xa cách sẽ ngập tràn niềm vui và hạnh phúc nhưng trong câu chuyện, cuộc găp ấy lại khiến nhân vật “anh” “đau đớn”. Vì sao vậy?

Gợi ý:
Lẽ ra cuộc gặp mặt sau tám năm xa cách vẫn ngâp tràn niềm vui, hạnh phúc. Nhưng trong câu chuyện, cuộc gặp gỡ ấy lại khiến nhân vật “anh” thấy “đau đớn” vì:

- Anh Sáu đi kháng chiến xa nhà đã tám năm, nay được về nghỉ phép thăm nhà có ba ngày, trước khi đi nhận nhiệm vụ mới. Anh khao khát, mong chờ gặp lại đứa con gái mà anh chưa hề gặp mặt. Song, bé Thu (con gái anh) chỉ biết mặt cha qua tấm ảnh đã không nhận ra anh là cha đẻ của mình, hoảng sợ bỏ chạy vì anh có vết sẹo dài trên má “giần giật ửng đỏ” mỗi khi xúc động, không giống tấm hình mà anh chụp chung với mẹ của bé. Anh “đau đớn” vì bất ngờ khi thấy đứa con mà anh hằng mong đợi không chấp nhận anh là cha đẻ của mình.

Câu 4: Hãy viết một đoạn văn nghị luận khoảng 12 câu theo phép lập luận quy nạp làm rõ tình cảm sâu nặng của người cha đối với con trong tác phẩm trên, trong đoạn văn có sử dụng câu bị động, phép thay thế (gạch dưới câu bị động và những từ ngữ dùng làm phép thay thế)

Gợi ý:
a. Về hình thức:

- Đoạn văn trình bày theo phép lập luận quy nạp: Câu chốt ý nằm ở cuối đoạn, không có câu mở đoạn, thân đoạn làm sáng rõ nội dung chính bằng các mạch ý nhỏ

- Đảm bảo chỉ số câu quy định (khoảng 12 câu); viết liên tiếp câu không xuống dòng, những đầu đoạn lùi vào một ô, viết hoa.

- Khi viết không sai lỗi chính tả, phải trình bày rõ ràng

b. Về nội dung:

* Các câu trong đoạn phải hướng vào làm rõ nội dung chính sẽ chốt ý ở cuối đoạn là:

- Tình cảm sâu nặng của người cha đối với con, được thể hiện trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”

* học sinh lựa chọn nhiều hướng khai thác làm rõ nội dung chính. Các em có thể khai thác mạch ý theo trình tự thời gian trong tác phẩm sau đây để làm rõ tình cảm sâu nặng của người cha đối với con

- Khi anh Sáu về thăm nhà:

+ Khao khát, nôn nóng muốn gặp con: Khi xuồng cập bến: Anh “ nhảy thót lên”, “bước vội vàng tới chỗ Thu đang chơi ở nhà chòi, kêu to “Thu! Con”

+ Đau đớn khi thấy con bỏ chạy: “mặt anh sầm lại, trông thật đáng thương và hay tay buông xuống như bị gãy”

+ Suốt ba ngày ở nhà: “Anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con” và khao khát “ mong được nghe một tiếng ba của con bé”, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi

- Khi anh Sáu ở trong rừng tại khu căn cứ (ý này là trọng tâm):

+ Sau khi chia tay với gia đình, anh Sáu luôn day dứt, ân hận về việc anh đã đánh con khi nóng giận. Nhớ lời dặn của con: “ Ba về! ba mua cho con môt cây lược nghe ba!” đã thúc đẩy anh nghĩ tới việc làm một chiếc lược ngà cho con.

+ Anh đã vô cùng vui mừng, sung sướng, hớn hở như một đứa trẻ được quà khi kiếm được một chiếc ngà voi. Rồi anh dành hết tâm trí, công sức vào làm cây lược “ anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”.

“ trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”

=> Chiếc lược ngà đã thành một vật quý giá, thiêng liêng với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách.

+ khi bị viên đạn của máy bay Mỹ bắn vào ngực, lúc không còn đủ sức chăng chối điều gì, anh đã “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho bác Ba, nhìn bác Ba hồi lâu. Và chỉ đến khi bác Ba hứa sẽ trao tận tay bé Thu cây lược ngà thì “Anh mới nhắm mắt đi xuôi”

=> Cây lược ngà trở thành kỷ vật minh chứng cho tình yêu con thắm thiết, sâu nặng của anh Sáu, của người chiến sỹ Cách mạng với đứa con gái bé nhỏ trong hoàn cảnh chiến tranh đầy éo le, đau thương, mất mát. Anh Sáu bị hy sinh, nhưng tình cha con trong anh không bao giờ mất.

c. Học sinh sử dụng đúng và thích hợp trong đoạn văn viết câu bị động và phép thế.

Chú ý:

+ Gạch chân và chú thích rõ ràng câu bị động, những từ ngữ dùng làm phép thế trong đoạn văn.

Phần II (3 điểm):

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt được mở đầu như sau:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

(Ngữ văn lớp 9, tập một, NXB Giáo dục 2009, tr 143)

Câu 1: Chỉ ra từ lấy trong dòng thơ đầu. Từ láy ấy giúp em hình dung gì về hình ảnh “bếp lửa” mà tác giả nhắc tới?

Gợi ý:

Từ láy trong dòng thơ đầu là “ chờn vờn”. Từ láy ấy giúp em hình dung về hình ảnh “bếp lửa” mà tác giả nhắc tới là:

+ Ánh sáng ngọn lửa trong bếp bập bùng, khi to, khi nhỏ trong không gian mênh mông, rộng lớn của buổi sáng tinh mơ của một làng quê; gợi lên một bếp lửa bình dị, quen thuộc trong cuộc sống còn nghèo khó của người bà.

+ Bếp lửa “chờn vờn” ấy luôn đi sâu trong ký ức của người cháu; Nhớ tới bếp lửa là người cháu lại nhớ tới hình ảnh của người bà bên bếp lửa

=> Bếp lửa là hình tượng thơ khơi nguồn cảm xúc để người cháu hồi tưởng về hình ảnh người bà kính yêu của mình.

Câu 2: Ghi lại ngắn gọn cảm nhận của em về câu thơ “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”


Gợi ý:

Câu thơ “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” khép lại khổ đầu bài thơ “Bếp lửa”, giới thiệu với bạn đọc người luôn làm cho bếp lửa “chờn vờn sương sớm” cháy sáng bằng bằng tay khéo léo đảm đang của mình là hình ảnh người bà kính yêu.

+ Câu thơ đã bộc lộ trực tiếp tình cảm nhớ thương bà một cách sâu sắc, khi người cháu đã ở tuổi trưởng thành.

+ Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” trong câu thơ diễn tả dòng suy ngẫm hồi tưởng về cuộc đời người bà lận đận vất vả bên bếp lửa nấu ăn cho cả nhà trong mọi hoàn cảnh: Lúc “đói mòn đói mỏi”, lúc “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Nhất là lúc chiến tranh “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”

=> Câu thơ không chỉ gợi tình cảm nhớ thương, kính trọng bà của người cháu đã trựởng thành mà còn gợi cho người đọc thấy rằng hình ảnh người bà ở làng quên Việt nam chịu thương chịu khó, hết lòng vì gia đình.


Câu 3: Tình cảm gia đình hoà quyện với tình yêu quê hương đất nước là một đề tài quen thuộc của thơ ca. hãy kể tên hai bài thơ Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 9 viết về đề tài ấy và ghi rõ tên tác giả.

Gợi ý:

Hai bài thơ Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 9 viết về tình cảm gia đình hoà quyện với tình yêu quê hương đất nước là:

a.“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa điềm

b.“Nói với con” của Y Phương

--------theo tuoitre.vn-----------
Gợi ý lời giải của cô giáo Phạm Thị Tú Anh, giáo viên trường THCS Đống Đa-Hà Nội

Đề-Gợi ý chấm Văn TS10 2010 tại Đà Nẵng

KÌ THI TUYỂN SINH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Khóa ngày 21 tháng 06 năm 2010 tại ĐÀ NẴNG
Mơn thi : VĂN
Thời gian: 120 phút (không tính thời gian giao đề)
ĐỀ CHÍNH THỨC--------------------
Câu 1: (1 điểm)
Nêu tên các phép tu từ từ vựng trong hai câu thơ sau và chỉ rõ những từ ngữ thực hiện phép tu từ đó :
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
(Hồ Chí Minh, Cảnh khuya)
Câu 2: (1 điểm)
Xét theo mục đích giao tiếp, các câu được gạch chân trong đoạn văn sau thuộc kiểu câu nào?
Đứa con gái lớn gồng đôi thúng không bước vào. (1) Ông cất tiếng hỏi:
- Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày ? (2)
Không để đứa con kịp trả lời, ông lão nhỏm dậy vơ lấy cái nón:
- Ở nhà trông em nhá ! (3) Đừng có đi đâu đấy. (4).
(Kim Lân, Làng)
Câu 3: (1 điểm)
Chỉ ra các từ ngữ là thành phần biệt lập trong các câu sau. Cho biết tên gọi của các thành phần biệt lập đó.
a. Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. (Nam Cao, Lão Hạc)
b. Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về. (Hữu Thỉnh, Sang thu)
Câu 4: (2 điểm)
Tự lập là một trong những yếu tố cần thiết làm nên sự thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Hãy viết một đoạn văn hoặc một bài văn ngắn (khoảng 20 dòng) trình bày suy nghĩ của em về tính tự lập của các bạn học sinh hiện nay.
Câu 5: (5 điểm)
Phân tích đoạn trích sau :
CẢNH NGÀY XUÂN
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Ngữ văn 9, Tập 1, NXBGDVN, 2010, tr.84, 85)

BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu 1:
- Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,: phép tu từ từ vựng so sánh.
- Chưa ngủ (ở cuối câu thơ trên và được lặp lại ở đầu câu thơ dưới): phép tu từ từ vựng điệp ngữ liên hoàn.

Câu 2:
- Đứa con gái lớn gồng đôi thúng không bước vào. (1) : câu kể (trần thuật)
- Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày ? (2) : câu nghi vấn
- Ở nhà trông em nhá ! (3) Đừng có đi đâu đấy. (4) : câu cầu khiến.

Câu 3:
a. Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm : thành phần phụ chú.
b. Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về. : thành phần tình thái.

Câu 4: Thí sinh cần đảm bảo các yêu cầu:
- Văn bản là một đoạn văn hoặc một bài văn ngắn (khoảng 20 dòng).
- Nội dung : suy nghĩ về tính tự lập của học sinh hiện nay.
- Hành văn : rõ ràng, chính xác, sinh động, mạch lạc và chặt chẽ.
Sau đây là một số gợi ý về nội dung :
+ Tự lập, nghĩa đen là khả năng tự đứng vững và không cần sự giúp đỡ của người khác.
+ Tự lập là một trong những yếu tố cần thiết làm nên sự thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống.
+ Trong học tập, người học sinh có tính tự lập sẽ có thái độ chủ động, tích cực, có động cơ và mục đích học tập rõ ràng, đúng đắn. Từ đó, nó sẽ giúp cho học sinh tìm được phương pháp học tập tốt. Kiến thức tiếp thu được vững chắc. Bản lĩnh được nâng cao.
+ Hiện nay, nhiều học sinh không có tính tự lập trong học tập. Họ có những biểu hiện ỷ lại, dựa dẫm vào bạn bè, cha mẹ. Từ đó, họ có những thái độ tiêu cực : quay cóp, gian lận trong kiểm tra, trong thi cử; không chăm ngoan, không học bài, không làm bài, không chuẩn bị bài. Kết quả: những học sinh đó thường rơi vào loại yếu, kém cả về hạnh kiểm và học tập.
+ Học sinh cần phải rèn luyện tính tự lập trong học tập vì điều đó vừa giúp học sinh có thái độ chủ động, có hứng thú trong học tập, vừa tạo cho họ có bản lĩnh vững chắc khi tiếp thu tri thức và giải quyết vấn đề. Tự lập không phải là cô lập, không loại trừ sự giúp đỡ chân thành, đúng đắn của bạn bè, thầy cô khi cần thiết, phù hợp và đúng mức.
+ Tính tự lập trong học tập là tiền đề để tạo nên sự tự lập trong cuộc sống. Điều đó, là một yếu tố rất quan trọng giúp cho học sinh có được tương lai thành đạt. Tính tự lập là một đức tính vô cùng quan trọng mà học sinh cần có, vì không phải lúc nào cha mẹ, bạn bè và thầy cô cũng ở bên cạnh họ để giúp đỡ họ. Nếu không có tính tự lập, khi ra đời học sinh sẽ dễ bị vấp ngã, thất bại và dễ có những hành động nông nỗi, thiếu kiềm chế.

Câu 5:
Thí sinh có thể có nhiều cách trình bày khác nhau. Tuy nhiên, cần đảm bảo các yêu cầu:
- Phân tích một đoạn thơ.
- Bài viết có kết cấu đầy đủ, rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ. Hành văn trong sáng, sinh động.
Sau đây là một số gợi ý :
+ Giới thiệu vài nét về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
+ Giới thiệu đoạn thơ và vị trí của nó.
+ Giới thiệu đại ý đoạn thơ: tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, chị em Kiều đi chơi xuân.
+ Dựa theo kết cấu của đoạn thơ để phân tích.
* Phân tích 4 câu thơ đầu : khung cảnh ngày xuân với vẻ đẹp riêng của mùa xuân.
- 2 câu đầu vừa nói về thời gian, vừa gợi không gian: thời gian là tháng cuối cùng của mùa xuân; không gian: những cảnh én rộn ràng bay liệng như thoi đưa giữa bầu trời trong sáng.
- 2 câu sau là một bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân, với hình ảnh thảm cỏ non trải rộng tới chân trời. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống; trong trẻo, thoáng đạt; nhẹ nhàng, thanh khiết. Chữ điểm làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh tại.
* Phân tích 8 câu thơ tiếp : khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
- Tảo mộ: đi viếng mộ, quét tước, sửa sang phần mộ của người thân; một loạt từ 2 âm tiết là tính từ, danh từ, động từ gợi lên không khí lễ hội rộn ràng, đông vui, náo nhiệt cùng với tâm trạng của người đi dự hội.
- Hội đạp thanh : du xuân, đi chơi xuân ở chốn đồng quê. Cách nói ẩn dụ: nô nức yến anh gợi lên hình ảnh những đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân, nhất là những nam thanh nữ tú, những tài tử giai nhân. Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả còn khắc họa một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa.
* Phân tích 6 câu thơ cuối : khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về.
- Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng nhưng không khí nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lặng dần theo bóng ngã về tây.
- Cảnh được cảm nhận qua tâm trạng của hai cô gái tuổi thanh xuân với những cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn và những linh cảm về điều sắp xảy ra sẽ xuất hiện : nấm mồ của Đạm Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng.
+ Đoạn trích thể hiện nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du: kết hợp bút pháp tả và gợi, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình để thể hiện cảnh ngày xuân với những đặc điểm riêng, miêu tả cảnh mà nói lên được tâm trạng của nhân vật.
------------------------------------
Theo thanhnien.vn
Nguyễn Hữu Dương
(TT Luyện thi Đại học và Bồi dưỡng Văn hóa Vĩnh Viễn)

Đề -Gợi ý chấm Văn TS 10 2010 TPHCM

Đề thi môn Ngữ văn - thời gian làm bài 120 phút

Câu 1 - 1 điểm: Hãy chép chính xác hai câu cuối trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Hai câu thơ ấy cho em biết phẩm chất gì của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn?

Câu 2 - 1 điểm: Tìm thành phần gọi - đáp trong câu ca dao sau và cho biết lời gọi - đáp đó hướng đến ai:

Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Câu 3 - 3 điểm: Thể hiện mình là một nhu cầu của lứa tuổi học sinh. Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 1 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về cách thể hiện bản thân trong môi trường học đường.

Câu 4 - 5 điểm: Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên trong đoạn trích truyện Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn THành Long (SGK Ngữ văn 9, tập 1, trang 180 - 188).


-----------------------
Gợi ý đáp án

Câu 1 (1 điểm):

- Viết đúng hai câu cuối trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

- Hai câu thơ thể hiện phẩm chất dũng cảm, yêu nước (quyết tâm chiến đấu vì miền Nam) của người lính.

Câu 2 (1 điểm):

- Xác định đúng thành phần gọi - đáp: Bầu ơi.

- Lời gọi đáp đó hướng tới tất cả mọi người dân Việt Nam.


Câu 2 (3 điểm): yêu cầu:

• Về kỹ năng:

+ Viết một văn bản nghị luận khoảng một trang giấy thi có bố cục 3 phần rõ ràng.

+ Lập luận chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc, đúng ngữ pháp.

+ Tránh dùng văn kể, văn nói.

+ Không mắc lỗi chính tả.

+ Trình bày sạch sẽ, chữ viết rõ ràng.

• Về nội dung:

+ Có dẫn dắt và nêu vấn đề: thể hiện mình là một nhu cầu của lứa tuổi học sinh.

+ Học sinh giải thích cụm từ “thể hiện mình” (thể hiện mình là muốn khẳng định mình, chứng tỏ bản thân mình trước mọi người, muốn người khác biết đến mình… bằng chính những việc làm của bản thân).

+ Học sinh trình bày được các cách thể hiện bản thân (có thể bằng một hoặc nhiều cách tùy theo học sinh):

- Sự tự tin (trong học tập, trong giao tiếp, mạnh dạn trình bày ý kiến cỉa bản thân...).

- Phấn đấu, nỗ lực học tập để đạt kết quả cao.

- Có những việc làm tốt để lại dấu ấn trong lòng bạn bè, thầy cô như biết giúp đỡ bạn, dám dấu tranh chống lại cái xấu.

- Không dựa dẫm vào người khác...

+ Có ý phê phán: có không ít học sinh thể hiện mình bằng cách đua đòi, chưng diện, ăn chơi, chứng tỏ mình là người sành điệu, bỏ ngoài tai những lời nhắc nhở của thầy cô, bạn bè…

+ Có ý mở rộng: tự thể hiện, tự khẳng định mìmh không phải là tự cao, tự đại (ranh giới giữa tự thể hiện, tự khẳng định với tự cao, tự đại rất mong manh).

+ Đánh giá chung: Đây là một nhu cầu, là một hiện tượng khá phổ biến ở lứa tuổi học sinh. Điều này có thể tốt hay xấu, lợi hay hại là do cách học sinh thể hiện bản thân.

Câu 3 (5 điểm): yêu cầu:

• Về kỹ năng:

+ Nắm vững phương pháp làm bài văn bản nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện.

+ Trình bày rõ ràng, thuyết phục các luận điểm.

+ Phân tích sâu sắc các chi tiết (lời nói, hành động,suy nghĩ), tình huống… trong truyện để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên.

+ Bố cục chặt chẽ, rõ ràng.

+ Diễn đạt trôi chảy, câu văn sáng rõ, giàu cảm xúc.

+ Không mắc lỗi chính tả.

+ Trình bày sạch sẽ, chữ viết rõ ràng.

• Về nội dung:

Đề bài yêu cầu học sinh cảm nhận về nhân vật nhằm kiểm tra, đánh giá năng lực cảm nhận văn học. Học sinh có thể trình bày cảm nhận của mình bằng nhiều cách nhưng cần bảo đảm được những ý chính sau:

+ Nắm được kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm, nhân vật.

+ Cảm nhận được những nét đẹp tâm hồn của nhân vật anh thanh niên (yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao; nhân hậu; khiêm tốn, lặng lẽ cống hiến; lạc quan, yêu đời...).

+ Nhận xét, đánh giá về nhân vật (đại diện cho lớp thanh niên tiêu biểu với lẽ sống cao đẹp…); cách xây dựng nhân vật của tác giả (khắc họa tính cách của nhân vật qua cuộc gặp gỡ chỉ 30 phút, qua cảm nhận, cái nhìn của các nhân vật khác, nhân vật không có tên riêng…).

+ Bộc lộ được cảm xúc, suy nghĩ của bản thân (yêu mến, khâm phục, suy nghĩ về lẽ sống của bản thân…).
---------------------------------
theo Tuoitre.vn
PHẠM THỊ VÂN HƯƠNG - PHAN THỊ XUÂN
(Giáo viên văn trường THCS Trần Văn Ơn)

Đề thi -Đáp án TS vào lớp 10 2009-2010

Đề thi -Đáp án TS vào lớp 10 2009-2010 của: TPHCM,Hà Nội,Quảng Nam,Hưng Yên

http://d.violet.vn/uploads/resources/159/552223/preview.swf

Các nhãn: và từ khóa

9.Thi TS lớp 10,
NLXH,
VH Trung Đại,
Hiện thực XHPK,
Lặng lẽ Sapa,
Tiếng Việt,
Nhân hóa,
Nhân vật,
Mùa xuân nho nhỏ,
Khởi ngữ,
Thành ngữ,
Ý nghĩa nhan đề,
Yếu tố nghệ thuật,
Tình bạn,
Quan niệm sống,
Người con gái NX,
Phép liên kết,
Ánh trăng,
Bếp lửa

Đề - Đáp án TS 10 2008-2009 TK

THI TUYỂN SINH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
NĂM HỌC 2008 - 2009
MÔN THI: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 120 phút (không kể thời gian giao đề)
-------------------------------

Câu 1 (1,0 điểm)
Tìm khởi ngữ trong câu sau và viết lại thành câu không có khởi ngữ:
Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”
(Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê).
Câu 2 (2,0 điểm)
Giải thích nghĩa của các thành ngữ dưới đây và cho biết những thành ngữ này có liên quan đến phương châm hội thoại nào?
a. Ông nói gà bà nói vịt.
b. Cãi chày cãi cối.

Câu 3 (2,0 điểm)
Hãy nêu tình huống chính của truyện và vai trò của tình huống ấy trong truyện ngắn “Làng” (Kim Lân).

Câu 4 (5,0 điểm)

Cảm nhận của em về đoạn thơ:

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
(Nguyễn Duy, Ánh trăng, SGK Ngữ văn 9 tập I,
NXB Giáo dục, 2005)

-------- Hết --------





HƯỚNG DẪN CHẤM THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT
NĂM HỌC 2008 - 2009
MÔN NGỮ VĂN


Câu 1 (1,0 điểm)
- Khởi ngữ là: Còn mắt tôi (0,5 điểm)
- Câu không khởi ngữ: Các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!” (0,5 điểm)
Câu 2 (2,0 điểm)
a. - Giải thích nghĩa Ông nói gà bà nói vịt: không nói đúng đề tài giao tiếp, nói lạc đề. (0,5 điểm)
- Không tuân thủ phương châm quan hệ. (0,5 điểm)
b. - Giải thích Cãi chày cãi cối: Cố tranh cãi nhưng không có lí lẽ gì.
(0,5 điểm)
- Cách nói, nội dung nói không tuân thủ phương châm về chất.
(0,5 điểm)
Câu 3 (2,0 điểm)
- Mỗi truyện ngắn thường tập trung vào một tình huống chính. Tình huống đó là một hoàn cảnh mà nhân vật phải bộc lộ đầy đủ tính cách, các biến cố, sự kiện trong cốt truyện được dồn nén, vấn đề của truyện được nảy sinh. Xây dựng tình huống là một trong những yếu tố quan trọng nhất của nghệ thuật viết truyện.
(0,5 điểm)
- Tình huống của truyện Làng là: khi ông Hai ở phòng thông tin ra, đang phấn chấn, hào hứng với những tin tức kháng chiến thì bất ngờ nghe tin làng mình theo giặc. (0,5 điểm)
- Tình huống ấy đã đặt ông ấy vào một tâm trạng bất ổn, căng thẳng trong sự xung đột giữa tình cảm làng quê và lòng yêu nước, ý thức công dân. Đặt trong tình huống ấy tính cách và nội tâm của nhân vật ông Hai đã bộc lộ sâu sắc.
(1,0 điểm)
Câu 4 (5,0 điểm)
1. Yêu cầu về nội dung:
Học sinh phải nắm vững nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ hiểu được ý nghĩa của hình ảnh vầng trăng, từ đó thấm thía cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao và biết rút ra bài học về cách sống cho mình.
a. Giới thiệu được tác giả, tác phẩm và vị trí của đoạn thơ.
b. Hình ảnh vầng trăng cùng cảm xúc của nhà thơ:
- Sống ở thành phố hiện đại nhiều tiện nghi, vật chất ánh điện, cửa gương, ngỡ như không còn chỗ cho vầng trăng tình nghĩa một thời gian lao của người lính:vầng trăng đi qua ngõ - như người dưng qua đường.
- Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trong tình huống đặc biệt phòng buyn-đinh tối om gây ấn tượng mạnh: đột ngột vầng trăng tròn, nhà thơ nhận ra vẻ đẹp đích thực của vầng trăng tròn mà lâu nay sống với ánh điện, cửa gương đã quên mất.
- Cảm xúc thiết tha có phần thành kính ở tư thế lặng im: Ngửa mặt lên nhìn mặt - có cái gì rưng rưng.
- Vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên tươi mát, là người bạn tri kỷ suốt thời tuổi nhỏ rồi thời chiến tranh ở rừng. Vầng trăng xuất hiện làm sống dậy trong tâm trí con người bao kỷ niệm của năm tháng gian lao, bao hình ảnh của thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu như là đồng là bể - như là sông là rừng.
- Khổ cuối đoạn thơ là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tình triết lý của tác phẩm: Trăng cứ tròn vành vạnh như tượng trưng quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyện chẳng thể phai mờ, ánh trăng im phăng phắc chính là người bạn – nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì bất diệt.
- Từ một câu chuyện riêng, đoạn thơ cất lên lời tự nhắc nhở, thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, nghĩa tình đối với thiên nhiên đất nước bình dị hiền hậu.
c. Ý nghĩa của đoạn thơ nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn, gợi lên đạo lý sống thủy chung đã thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
d. Thể thơ năm chữ, nhịp thơ trôi chảy tự nhiên theo lời kể, có khi trầm lắng biểu hiện suy tư, giọng điệu tâm tình tự nhiên như một lời tự nhắc nhở. Kết cấu, giọng điệu của đoạn thơ có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tạo nên tính chân thực, sức truyền cảm sâu sắc, gây ấn tượng mạnh cho người đọc.
2. Yêu cầu về kỹ năng.
- Nắm vững phương pháp nghị luận về một đoạn thơ. Cảm nhận phải gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc của đoạn thơ.
- Bố cục chặt chẽ, mạch lạc, rõ ràng. Diễn đạt trôi chảy, gợi cảm. Không sai lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
3. Biểu điểm:
- Điểm 5,0: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên.
- Điểm 4,0: Đáp ứng tương đối tốt các yêu cầu trên. Có thể mắc 1, 2 lỗi về diễn đạt, chính tả, dùng từ.
- Điểm 3,0: Đáp ứng được 2/3 yêu cầu trên trở lên. Có thể mắc 3, 4 lỗi về diễn đạt, chính tả, dùng từ.
- Điểm 2,0: Đáp ứng một số yêu cầu trên song còn hời hợt, tản mạn. Diễn đạt chưa trôi chảy.
- Điểm 1,0: Bài làm lan man chưa làm rõ yêu cầu của đề.
-----------------------
Ghi chú: Giáo viên có thể cho đến 0,25 điểm. Điểm toàn bài không được làm tròn.

Tuyển sinh lớp 10

Tuyển sinh lớp 10 tại TP.HCM: Đề thi dành ít nhất 2 điểm cho học sinh giỏi


TT - Tin từ Sở GD-ĐT TP.HCM cho biết kỳ thi tuyển sinh lớp 10 tại TP.HCM (diễn ra ngày 21 và 22-6-2010), toàn TP có hơn 50.000 thí sinh dự thi.


Giống như kỳ thi tốt nghiệp THPT, các thí sinh sẽ thi theo cụm: một hội đồng thi sẽ có học sinh của 3-5 trường THCS theo nguyên tắc bố trí cho các thí sinh được đi thi ở gần nhà nhất. Riêng thí sinh đăng ký vào lớp 10 chuyên sẽ thi tại hai hội đồng: hội đồng thi vào lớp 10 thường và hội đồng thi vào lớp 10 chuyên. Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại cho các thí sinh, năm nay sở đã bố trí hai đồng thi chuyên tại ngoại thành là hội đồng thi Trường THPT Nguyễn Hữu Cầu (tập trung các thí sinh ở Củ Chi và Hóc Môn) và Trường THPT Nguyễn Hữu Huân (tập trung các thí sinh ở Q.2, Q.9, Thủ Đức).


Nên đi thử từ nhà đến nơi thi

Theo lãnh đạo phòng khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục Sở GD-ĐT TP.HCM, trong ngày 20-6 các thí sinh nên đi thử từ nhà đến hội đồng thi để biết trước đoạn đường gần hay xa, thời gian đi lại... Từ đó, thí sinh sẽ dự phòng thời gian đi lại để không bị trễ giờ trong ngày thi chính thức.

Theo ông Huỳnh Công Minh - giám đốc Sở GD-ĐT TP - đề thi tuyển sinh lớp 10 sẽ ra theo hướng kiểm tra kiến thức cơ bản, năng lực vận dụng kiến thức, sự hiểu biết về thực hành của người học. Vì là kỳ thi tuyển sinh nên đề thi sẽ có độ phân hóa rõ, dành ít nhất 2 điểm cho học sinh giỏi.

Trong đó,
Môn ngữ văn sẽ gồm các câu hỏi tự luận:
kiểm tra kiến thức văn học (tác giả, tác phẩm), giải bài tập tiếng Việt, viết đoạn văn ngắn về một vấn đề xã hội, nghị luận văn học.
Môn toán gồm phần đại số: sẽ có khoảng bốn bài toán từ 6-7 điểm, phần hình học có từ 1-2 bài toán với 3-4 điểm.
Môn tiếng Anh bao gồm hai phần: phần trắc nghiệm nhiều lựa chọn (dự kiến khoảng 6 điểm) nhằm kiểm tra kiến thức thí sinh về ngữ âm, ngữ pháp, cấu trúc ngữ pháp, điền khuyết (guided cloze), tìm lỗi. Riêng phần tự luận (dự kiến khoảng 4 điểm) sẽ kiểm tra về dạng thức từ, đọc hiểu dạng true - false, viết lại câu.

Điểm tuyển sinh sẽ là tổng điểm ba bài thi với hệ số theo quy định (ngữ văn và toán hệ số 2, ngoại ngữ hệ số 1) và tổng điểm cộng thêm (nếu có). Ở một trường, điểm chuẩn nguyện vọng 2 cao hơn điểm chuẩn nguyện vọng 1 và điểm chuẩn nguyện vọng 3 cao hơn điểm chuẩn nguyện vọng 2 không quá 1 điểm.
--------------------------------------
theo Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)

Rút kinh nghiệm làm bài môn Toán

Theo thầy Tùng, học sinh còn mắc một số lỗi cần rút kinh nghiệm: Vẽ đồ thị bằng bút chì, không vẽ hoặc vẽ sai hình (bài hình không gian), kí hiệu sai trong các công thức tính đạo hàm, tính tích phân, tính khoảng cách, tính toán, trình bày cẩu thả. Trình bày thiếu ý, thiếu lập luận (bài hàm số, bài thể tích), thiếu điều kiện (bài logarit). Hiểu sai khái niệm (bài số phức, bài khoảng cách). Vẫn có học sinh làm cả 2 phần của phần riêng nên bị trừ hết điểm phần này.

Rút kinh nghiệm cho kì thi tuyển sinh sắp tới, các thí sinh nên dành thời gian đọc kĩ đề, đánh dấu (vào đề) các lưu ý, lựa chọn các câu dễ làm trước (lên chiến lược làm bài). Trình bày rõ, phân biệt câu 1, 2, a, b, c… Sai thì gạch bỏ, cách 1 dòng làm tiếp, không sửa chữa, tẩy xóa lem nhem. Không nên bỏ trống nhiều, có thể bị chấm sót. Chú ý viết đúng các kí hiệu trong các công thức, nhất là các công thức phần hình giải tích (kí hiệu véc tơ, góc, tích vô hướng, tích có hướng, tính góc, khoảng cách, diện tích, thể tích,…).

Sử dụng nháp hợp lí:
Chỉ nháp để lấy hướng làm rồi làm ngay vào giấy thi, không nên làm xong rồi chép từ nháp vào, tốn thì giờ và hay bị sai. Có thói quen kiểm tra 3 vòng: Kiểm tra khi đang biến đổi, sau khi xong một bài và trước khi nộp bài.
------------------
Hồng Hạnh - dantri.com.vn

Bí quyết học của các thủ khoa

http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/201024/20100611230706.aspx

Để có điểm cao nhất trong kỳ thi tuyển sinh ĐH-CĐ, nhiều thủ khoa năm 2009 của các trường ĐH lớn đã có những bí quyết học tập rất bổ ích. Kinh nghiệm của họ sẽ là bài học quý dành cho thí sinh (TS) trong kỳ thi sắp tới.
Chịu khó làm bài tập

Đây là kinh nghiệm của hầu hết các thủ khoa khi nói về bí quyết thành công của mình. Nguyễn Thị Thảo - Á khoa khối D1, ĐH Hải Phòng, cho rằng quan trọng nhất là phải chịu khó làm bài tập, vì làm nhiều sẽ vỡ ra khá nhiều điều cần thiết. Nguyễn Tiến Dũng, thủ khoa khối A trường Đại học Luật Hà Nội cũng nhấn mạnh làm nhiều và thành thạo nhiều dạng bài tập để có kỹ năng phân loại các dạng bài là chìa khóa để tìm được cách giải tối ưu. Ngô Chí Hiếu - thủ khoa Đại học Bách khoa TP.HCM với số điểm 30/30 lưu ý: khi giải dạng bài tập nào cần nắm chắc dạng đó, tránh làm bài tràn lan (cần phân biệt giải nhiều dạng bài tập với giải nhiều đề thi).

Nắm chắc kiến thức trong sách giáo khoa

Nguyễn Tiến Dũng cho biết, học bất kỳ một môn học nào, việc đầu tiên là nắm chắc kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, từ đó mới đào sâu và mở rộng ra những kiến thức liên quan. Với môn Vật lý, để ghi nhớ được phần lý thuyết được cho là rất khó đối với không ít học sinh, Dũng chọn cách tìm hiểu bản chất của các hiện tượng, sau đó mới học thuộc. Ngô Chí Hiếu đưa ra bí quyết không bị "lạc đường " trong lúc ôn thi bằng cách bám sát vào tài liệu về cấu trúc đề thi ĐH của Bộ GD-ĐT. Đặc biệt, trước khi mua tài liệu tham khảo, cần hỏi ý kiến thầy cô và nên chọn loại sách có cách sắp xếp các dạng bài tập theo từng chương như sách giáo khoa để thuận tiện khi ôn thi.

Hiếu lưu ý: trên mạng có nhiều trang web giúp học sinh giải nhanh đề và bài thi trắc nghiệm. Tuy nhiên, các bạn cần xác định chắc chắn cách học phù hợp với mình. Hiếu rút ra công thức: thành công = nắm vững lý thuyết + chăm chỉ làm nhiều dạng bài tập.

Biết cách kiểm tra kiến thức

Thủ khoa trường ĐH Ngoại thương Hà Nội, Phạm Mạnh Cường là một trong 11 thí sinh trên cả nước đạt điểm số tuyệt đối 30/30. Cách học của Cường thuộc diện "cổ điển", tức là tích lũy kiến thức từ từ, chắc chắn. Cường nói rằng kiến thức được xây dựng như một công trình, phải bắt đầu từ những viên gạch thì mới có một công trình bền vững.

Theo Lê Văn Huỳnh - thủ khoa khối A trường ĐH Công nghệ (ĐH Quốc gia Hà Nội), cách đơn giản và dễ thực hiện nhất là viết ra giấy những kiến thức, những điều cần ghi nhớ. Điều này giúp nhớ nhanh và lâu hơn. Quách Đăng Hưng - Á khoa ĐH Ngoại thương và ĐH Y Hà Nội có một nguyên tắc: buổi tối trước khi đi ngủ dành từ 20 phút tới 1 giờ để làm bài kiểm tra trực tuyến kiến thức vừa học hoặc vừa ôn luyện.

Vũ Thơ

Để đạt điểm cao môn Văn-Sử-Địa

Môn Văn: Cần có kết cấu sáng tạo, từ mở bài đến kết bài
Muốn đạt hiệu quả cao môn Văn trong kỳ thi tốt nghiệp, các em phải nắm chắc được kết cấu bài thi với 2 câu nghị luận xã hội và nghị luận văn học.

Đối với câu nghị luận xã hội, các em phải nắm chắc kỹ năng làm nghị luận xã hội, biết tổ chức ý trong bài. Học sinh cần chú ý cách tổ chức luận điểm khoa học, chính xác, rõ ràng, mạch lạc, có tính hệ thống. Đặc biệt, luận điểm phải sâu sắc mới mẻ (đề̀̀ xuất được ý kiến mới).

Sau khi có luận điểm rồi thì các em phải có dẫn chứng thực tế dựa vào vốn sống về xã hội, trải nghiệm xã hội để thuyết phục người đọc về nguyên nhân xảy ra, thực trạng hiện nay như thế nào, nêu các giải pháp. Các em nên dẫn chứng thực tế nhiều hơn dẫn chứng văn học.

Phần Nghị luận văn học, các em phải nắm rõ xuất xứ, chủ đề tác phẩm văn học ra đời trong hoàn cảnh nào.Đối với văn xuôi thì nắm vững cốt truyện, nhân vật, chi tiết, nội dung nghệ thuật, những sáng tạo độc đáo trong tác phẩm.

Nếu muốn viết được bài văn đạt điểm cao, ngoài việc tổ chức luận điểm sáng rõ mạch lạc, còn cần có kết cấu sáng tạo, từ mở bài đến kết bài.

Ngoài ra, cũng phải chú ý việc triển khai ý khi phân tích tác phẩm văn xuôi phải mạch lạc, lôgic, từ khái quát đến cụ thể. Các ý có sự liên kết chặt chẽ.

Phân tích sâu rồi mới mở rộng so sánh với các tác phẩm tương đồng. Nên đa dạng hóa câu văn, kết hợp câu nghị luận với câu nghi vấn, câu khẳng định, câu biểu cảm, câu văn giàu hình ảnh... Phải huy động vốn từ phong phú.

Đối với đề thi Văn “mở” như năm vừa qua cách ra đề mới, tạo khoảng rộng cho chủ thể sáng tạo. Các em không nhất thiết phải theo thứ tự A,B,C giải thích vấn đề tại sao, như thế nào. Tất nhiên, về mặt cốt lõi bên trong phải tuân theo lôgic nhưng làm mới vấn đề đó bằng cách đặt một câu chuyện nhập vào bài luận, từ vấn đề đó mình bàn luận ra.

Lưu ý: Bài văn đạt điểm cao phải có hình thức đẹp: Kết cấu sáng. Chữ sạch đẹp, rõ ràng. Viết hoa, đúng qui cách, đúng luật chính tả, dẫn chứng luôn để trong ngoặc kép...
-----------------------------------
Cô giáo Đinh Lê Thiên Nga, giáo viên môn Địa lý Trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam:
Môn Địa lý: Cuốn Atlat là “cứu tinh” gỡ điểm
Cuốn Atlat là tài liệu quan trọng mà các em được mang vào phòng thi. Do vậy, các em cần phải học, hiểu kỹ cuốn sách này vì chính kiến thức trong cuốn sách giúp các em lấy được 50% điểm trong bài thi.

Các bài thực hành vẽ biểu đồ như biểu đồ cột, biểu đồ tròn, biểu đồ đường, biểu đồ miền trong sách các em phải luyện thật nhuần nhuyễn để từ đó phân tích bảng số liệu, nhận xét mối liên hệ giữa các số liệu.

Đối với những bài thi không có trong cuốn Atlat yêu cầu học sinh phải tư duy như đường lối kinh tế, định hướng kinh tế, hướng khắc phục... ví dụ, từng bài khi sử dụng xong Atlat, học sinh phải biết được mối quan hệ giữa các số liệu (kênh chữ, kênh hình) và đưa ra nhận định. Câu nhận định này khó nhưng chỉ chiếm 0,5 điểm.

Trong làm bài thi các em đọc kỹ đề xem câu nào dễ làm trước, câu nào khó làm sau, để không bị mất thời gian sa đà vào một câu hỏi.
------------------------------------
Cô giáo Nguyễn Thị Kim Dung, giáo viên dạy Lịch sử Trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam:
Lịch sử: Cần đọc kỹ đề!
Để đạt điểm cao môn thi Lịch sử, khi nhận đề, các em đọc kỹ câu hỏi và trả lời thẳng vào vấn đề, để tránh lạc đề, nhầm đề, không tràn lan giới thiệu nhiều, dài dòng, mất rất nhiều thời gian lại không có điểm.

Ví dụ: Đề bài hỏi về Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 thì học sinh phải nhớ trong chiến dịch này thì âm mưu của Pháp là gì? Ta đối phó thế nào, chủ trương của Đảng ra làm sao? Rồi diễn biến cuộc tiến công của nó và phản công lại của ta... kết quả, ý nghĩa.

Đề thi tốt nghiệp không bao giờ ra kiểu lắt léo, đánh đố học sinh. Tuy nhiên, để đạt điểm cao việc đầu tiên các em phải có kiến thức, phải học thuộc bài.

Nếu đề thi yêu cầu các em trình bày thì các em trình bày, yêu cầu phân tích thì các em phân tích, không được nhầm lẫn câu hỏi sẽ không được điểm.

Chúc các em thành công!

Các lỗi dễ mắc và làm mất điểm Văn

Dân trí) - Qua nhiều năm dạy môn Ngữ văn, thầy Trần Quang Đại - giáo viên Trường PTTH Trần Phú (Đức Thọ, Hà Tĩnh) không khỏi buồn lòng trước thực trạng thí sinh thường gặp những sai lầm "chết người" trong các bài thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH.

Trước thềm các kỳ thi năm nay, thầy Trần Quang Đại đã dành thời gian tổng kết cho các bạn thí sinh những sai lầm trên, với hy vọng giúp các bạn rút kinh nghiệm, làm bài tốt đạt được kết quả tốt nhất trong bài làm của mình.

Dưới đây là nội dung 7 sai lầm được thầy Đại vạch ra:

1. Kể lại cốt truyện, "diễn nôm" bài thơ


Đối với những tác phẩm văn xuôi thường có yêu cầu phân tích nhân vật hay một vấn đề nào đó, thế là các sĩ tử tha hồ kể lể. Mặc dù yêu cầu của đề là cảm thụ, đánh giá chứ không phải là kể lại câu chuyện. Nhiều bài thi rất dài, nhưng không có ý, mà chủ yếu là thí sinh khoe trí nhớ của mình, kể lại chuyện, thậm chí còn thêm thắt, chẳng khác gì "tra tấn" giám khảo.

Đề yêu cầu phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn "Chí Phèo" thì thí sinh hầu như từ đầu đến cuối bài vanh vách kể lại cốt truyện, thậm chí còn trổ tài học thuộc trích luôn một vài câu nguyên văn mà chẳng có ý nghĩa gì. Cũng vậy, đề yêu cầu phân tích tình huống truyện của "Vợ nhặt" thì thí sinh nhẩn nha kể lại luôn câu chuyện.

Trí nhớ tốt là đáng ghi nhận, song yêu cầu của người ra đề là muốn kiểm tra xem thí sinh hiểu câu chuyện như thế nào, trình bày rõ ràng về một vấn đề cụ thể từ câu chuyện ấy, chứ không phải là kể lại câu chuyện một cách chán ngắt. Các chi tiết cần được dẫn ra một cách thông minh, để làm sáng tỏ luận điểm.

Đối với tác phẩm thơ thì không ít thí sinh sa vào "diễn nôm" lại ý nghĩa của những câu thơ. Tuy cần phải cắt nghĩa, giảng giải để hiểu rõ thêm, để thấy được những đặc sắc riêng của câu thơ, bài thơ, nhưng không có nghĩa là thí sinh chỉ việc diễn nôm lại ý nghĩa bài thơ. Câu "Câu thơ này cho thấy, đoạn thơ này nói lên, bài thơ này nghĩa là...." đã trở thành "công thức" trong bài làm của không ít sĩ tử. Bài thơ vốn hay, qua tài "chế biến" của "sĩ tử" bỗng trở nên nôm na, sống sượng.

2. Vận dụng thao tác so sánh bất hợp lý

Nhiều thí sinh khi làm bài đã vận dụng thao tác so sánh. Đây là phương pháp sẽ đạt hiệu quả cao nếu như biết xử lí phù hợp. So sánh khiến cho vấn đề được mở rộng, thú vị hơn, chứng tỏ người viết có kiến thức, tư duy. Ví dụ khi phân tích về bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng thì so sánh, liên hệ với bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu, hai bài thơ cùng viết về những chiến sĩ Vệ quốc thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp. Hoặc có thể so sánh nhân vật Chí Phèo với các nhân vật chị Dậu, lão Hạc...


Tuy nhiên, không ít thí sinh trong khi so sánh đã rơi vào tình trạng "việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng", nghĩa là sa đà vào phân tích nội dung liên hệ, mở rộng, mà lơ là phần nội dung chính của bài làm. Hậu quả là bài tuy có vẻ bay bổng, "uyên bác", song vì vấn đề chính chưa được trình bày đầy đủ, sâu sắc, nên kết quả vẫn không cao.

3. Gọi tên nhân vật không phù hợp

Nhiều sĩ tử vẫn hồn nhiên gọi nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là "hắn". Có bạn lại gọi nhân vật người phụ nữ "vợ nhặt" trong truyện "Vợ nhặt" của Kim Lân hay nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao là "thị". Các bạn tưởng đúng, vì chính tác giả cũng viết như thế. Song chỉ nhà văn có thẩm quyền gọi tên nhân vật như vậy, xuất phát từ phong cách hài hước, và có ý đồ nghệ thuật riêng. Còn nếu sĩ tử cũng gọi như vậy, thì vô hình trung đã mắc lỗi thiếu lịch sự; hoá ra sĩ tử coi thường nhân vật? Nên gọi một cách lịch sự, khách quan là nhân vật, hay người phụ nữ, người đàn bà, hoặc chỉ gọi tên nhân vật (Chí Phèo)...


Đồng thời, một số sĩ tử nhầm lẫn giữa nhà thơ với nhân vật trữ tình nên viết "Về với nhân dân, Chế Lan Viên vô cùng hạnh phúc, xúc động" (cảm nhận về bài thơ "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan Viên), "Hàn Mặc Tử ngỡ ngàng trước cái đẹp của Vĩ Dạ"... Đó là cách nói không chính xác, không thể gọi tên tác giả, mà phải nói là "nhân vật trữ tình".


Cách gọi tên các nhân vật trong tác phẩm đòi hỏi sự tinh tế, lịch lãm của người đọc, mà các giáo viên cần hướng dẫn thường xuyên trong các bài giảng. Do khuôn khổ bài viết nên không thể nói hết được, nói chung nên chú ý nguyên tắc khách quan, có văn hoá.


4. Thích giáo huấn, sướt mướt


Kết thúc bài phân tích về "Rừng xà nu", một thí sinh đã "tích hợp" luôn một bài học về lòng yêu nước, lí tưởng của thanh niên ngày nay. Một thí sinh sau phần nêu cảm nhận về bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh cũng "lên lớp" giám khảo một bài học về sự trong sáng, chung thủy của tình yêu, nhất là trong thời đại kinh tế thị trường có nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội. Đành rằng đọc xong tác phẩm, mỗi người sẽ rút ra được những kinh nghiệm, bài học riêng, song không nhất thiết phải thể hiện "lập trường tư tưởng" trong bài văn.

Không ít thí sinh lại thiên về xu hướng "sến" với các từ "Ôi, Than ôi, Biết mấy..." xuất hiện với tần suất khá cao trong bài. Khi yêu cầu bình luận về một câu danh ngôn về tình bạn, thí sinh viết "Các bạn ơi, tình bạn là thiêng liêng, cao quý lắm!". Xin thưa, bài văn nghị luận là văn bản thuộc phong cách khoa học, cần chú trọng yêu cầu chính xác, khách quan, có bằng chứng xác đáng, lôgic. Người viết (thí sinh) và người đọc (giám khảo) là bình đẳng. Vì vậy, viết "các bạn ơi", "các bạn ạ", "các bạn biết không" hay "kính thưa thầy cô"... đều không phù hợp. Và không phải là thêm vào mấy từ "Ôi, biết bao, biết mấy"... là bài văn có cảm xúc, hay hấp dẫn hơn. Giám khảo sẽ dễ dàng phân biệt cảm xúc, tình cảm thật hay là tình cảm có tính chất "hô khẩu hiệu" của thí sinh.

5. Chưa nắm được kết cấu của bài nghị luận xã hội


Từ năm 2009 trong đề thi Ngữ văn có câu nghị luận xã hội (30% số điểm). Đa số thí sinh mất nhiều điểm ở câu tưởng chừng như "dễ ăn" này, bởi vì chưa biết cấu trúc bài làm.

Bài nghị luận xã hội có hai dạng: Nghị luận (bàn bạc) về một tư tưởng, đạo lý, nghĩa là trao đổi, thảo luận về một ý kiến, một quan điểm. Ví dụ: Suy nghĩ về quan điểm "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh" hay "Học thầy không tầy học bạn" hoặc "Hạnh phúc là đấu tranh"... Dạng thứ hai là nghị luận về một hiện tượng đời sống, yêu cầu người viết trình bày nhận thức, quan điểm về những hiện tượng đáng lưu ý, "có vấn đề" trong đời sống. Ví dụ suy nghĩ về hiện tượng học sinh nữ đánh nhau; suy nghĩ về hiện tượng nhiều bạn trẻ đi học ở nước ngoài không trở về Việt Nam làm việc; về hiện tượng tệ nạn xã hội trong giới trẻ...

Dạng thứ nhất (Nghị luận về tư tưởng, đạo lý) cấu trúc bài làm ngoài phần mở bài và kết lưa65n như bình thường, phần thân bài cần luôn có ba phần:

- Giải thích

- Bàn luận: Ý nghĩa, mặt đúng, mặc tích cực; mặt tiêu cực, cần bổ sung...

- Bài học nhận thức và hành động: Nên suy nghĩ thế nào, hành động ra sao, liên hệ bản thân.

Dạng thứ hai (nghị luận về hiện tượng đời sống) cấu trúc thân bài cũng có cũng có ba phần:

- Giải thích: Nêu hiểu biết về hiện tượng,thực trạng, ý nghĩa của hiện tượng, Hiện tượng đó phản ánh điều gì, xu hướng gì.

- Bàn về nguyên nhân hiện tượng.

- Đề xuất giải pháp, phương hướng khắc phục, cách ứng xử.

Nhiều thí sinh mất điểm vì viết lan man, bài dài nhưng không có ý. Nếu trình bày đúng cấu trúc như trên, bảo đảm suy nghĩ không chệch hướng, và dễ đạt điểm cao. Bài nghị luận xã hội người viết có quyền trình bày quan điểm, tư tưởng, kinh nghiệm sống riêng, song để thuyết phục được người đọc thì bài văn bao giờ cũng phải đi theo một mạch tư duy sáng rõ, mạch lạc.


Xin "bật mí" thêm, muốn làm tốt kiểu bài nghị luận xã hội, thí sinh nên quan tâm đến những vấn đề xã hội, những quan niệm về lí tưởng, hạnh phúc, tình yêu, tình bạn... và tạo cơ hội tranh luận, "vặn vẹo" đúng sai, giải thích nguyên nhân, nêu quan điểm, giải pháp. Lâu dần sẽ rèn luyện khả năng nhận thức vấn đề nhanh, tranh biện sắc sảo, thuyết phục.

6. Mở bài chệch choạc, mông lung

Nhiều thí sinh cảm thấy khó khăn khi viết mở bài. Nhiều bạn muốn có một mở bài ấn tượng, "hoành tráng" theo kiểu mở bài gián tiếp, nhưng tốn nhiều thời gian mà kết quả lại không như ý. Mở bài gián tiếp nếu thành công sẽ tạo ấn tượng tốt với giám khảo, và đem lại chất văn cho bài. Tuy nhiên nếu người viết non tay thì sẽ bị phản tác dụng, rơi vào lan man. Mà nếu mở bài hay nhưng thân bài dở thì cũng chẳng ích gì.

Tốt nhất là nên mở bài trực tiếp, giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, vấn đề theo kiểu "mở cửa thấy núi" (khai môn kiến sơn). Mở bài có hay đến mấy cũng chỉ được tối đa 0,5 điểm, nên cần chú trọng dồn "nội lực" vào phần thân bài.

7. "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi"

Những lỗi không đáng có này năm nào cũng có người nhắc nhở, nhưng nhiều thí sinh vẫn không chú ý khắc phục. Đó là viết chữ quá nhỏ, nét quá mờ. Nhiều thí sinh không xuống hàng, cả bài chỉ một đoạn văn, làm giám khảo "theo" đọc đứt cả hơi. Bài văn nghị luận bao gồm nhiều ý (luận điểm), mỗi ý như vậy nên tách thành một đoạn văn, vừa lôgic, vừa dễ theo dõi.

Có thí sinh khi trích dẫn câu thơ, đoạn thơ, hay câu văn lại viết một hai chữ rồi thêm dấu ba chấm, coi như giám khảo đã biết rồi, hoặc cẩu thả đến mức trích dẫn sai. Nhiều bạn lại không chừa lề, bài vừa nhìn rườm rà mà không có chỗ cho giám khảo cho điểm chi tiết. Những việc "tiết kiệm" như thế không được giám khảo hoan nghênh, và dĩ nhiên là sĩ tử sẽ thiệt thòi.

Còn nếu sĩ tử nào vẫn mắc lỗi kiểu "chưa sạch nước cản" như sai chính tả, ngữ pháp, lạc đề, chữ như gà bới... thì thi rớt là cái chắc.
----------------------------

Nguồn dantri.com V.D. ghi

Đề-Gợi ý chấm Văn Bổ túc THPT 09-10

KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2010
Môn thi : NGỮ VĂN - Giáo dục thường xuyên
Câu 1. (2,0 điểm)
Nêu hoàn cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Câu 2. (3,0 điểm)
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về vai trò của nhà trường trong việc truyền thụ kiến thức văn hóa cho học sinh.

Câu 3. (5,0 điểm)
Phân tích hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục – 2008).
-------------------
BÀI GIẢI GỢI Ý

Câu 1. - Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp.
- Địa bàn hoạt động của Tây Tiến khá rộng.
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn nhưng họ rất lạc quan, dũng cảm.
- Quang Dũng là đại đội trưởng trong Đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, trong tình cảm nhớ thương những đồng đội cũ, nhà thơ đã viết bài Nhớ Tây Tiến.
- Khi in lại, tác giả đổi tên thành Tây Tiến và in trong tập Mây đầu ô. Đây là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ.

Câu 2: Một số gợi ý :

- Nhà trường có một vai trò quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức cho học sinh. Học sinh có thể tiếp thu kiến thức từ nhiều nguồn nhưng kiến thức ở nhà trường vẫn giữ vị trí quan trọng hàng đầu vì đó là kiến thức đã được chuẩn hóa,đạt độ chính xác cao và có định hướng.

Vai trò của ngành giáo dục nói chung và nhà trường rất quan trọng trong việc đào tạo ra nhân tài, tạo nên nguồn nguyên khí của quốc gia.

- Trong nhà trường người trực tiếp truyền thụ kiến thức là đội ngũ giáo viên. Họ đều là những người được đào tạo trong các trường Sư Phạm. Họ không những có trình độ tay nghề mà còn có lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Do vậy họ luôn có ý thức nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật thông tin để nâng chất lượng giờ dạy đem đến cho học sinh những hiểu biết chuẩn mực.

- Cha ông ta từ xa xưa đã rất coi trọng vai trò của nhà trường trong việc mở mang truyền bá kiến thức. Văn Miếu Quốc Tử Giám đã được xây dựng từ những thế kỉ đầu của quốc gia phong kiến Đại Việt. Các nước tiên tiến trên thế giới sở dĩ phát triển nhanh, mạnh vì coi trọng vai trò của giáo dục, trong đó trường học chiếm vị trí hàng đầu.

- Trong thời đại thông tin hiện nay, có rất nhiều nguồn cung cấp tri thức thì vai trò truyền bá kiến thức từ nhà trường càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

- Trong việc truyền thụ kiến thức văn hóa, ngoài vai trò quan trọng của người thầy, học sinh cũng cần phải có thái độ tích cực chủ động.

- Bên cạnh việc truyền thụ kiến thức văn hóa, nhà trường còn có nhiệm vụ giáo dục rèn luyện học sinh về mặt phẩm chất, đạo đức để học sinh không chỉ có kiến thức mà còn có cách sống, cách ứng xử văn hóa.

- Gia đình, xã hội cũng có vai trò không kém phần quan trọng đối với việc hình thành kiến thức và nhân cách của học sinh. Do vậy, để giá trị giáo dục được bền vững cần có sự kết hợp chặt chẽ, toàn diện và hiệu quả giữa nhà trường, gia đình và xã hội.

Câu 3. Yêu cầu học sinh nắm chắc kỹ năng phân tích một mặt hình tượng của tác phẩm. Cụ thể ở đây là hình tượng cây xà nu được miêu tả mang giá trị nghệ thuật cao: giá trị hiện thực, giá trị tượng trưng và giá trị biểu tượng.

1. “Rừng xà nu” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành và của văn học thời chống Mĩ. Trong tác phẩm, với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã làm nổi rõ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, một đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Khuynh hướng này đã chi phối sự sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn trong giai đoạn văn học này.

2. Đọc “Rừng xà nu” những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai… tạo nên ấn tượng sâu sắc nơi độc giả. Nổi bật hình ảnh cây xà nu được lặp đi lặp lại gần hai mươi lần, một hình tượng đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Hình tượng ấy đã tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi và lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô-man bất khuất, kiên cường. Qua tác phẩm, cây xà nu, rừng xà nu đã được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết với ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời văn có cánh” trong một cảm xúc thật say mê và mãnh liệt. Cây xà nu trong truyện xuất hiện rất nhiều lần và dường như rất quen thuộc với con người nơi núi rừng Tây Nguyên, nó tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của người dân nơi đây trong cuộc chiến đấu chống Mĩ thật anh dũng của họ.

Tác phẩm “Rừng xà nu” là một bản anh hùng ca về cuộc đời anh dũng, đau thương, bất khuất của Tnú cũng như của tất cả dân làng Xô-man. Câu chuyện ấy được kể trên nền tảng chính của hình tượng cây xà nu - một hình tượng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa tượng trưng và khái quát. Những cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn sống, vừa là nhân chứng, vừa tham gia bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi vất vả, đau thương dưới tầm đạn kẻ thù. Nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn tràn đầy sức sống, vẫn vươn mình lên cường tráng vượt lên mọi thương đau. Cây xà nu là một hình ảnh mang tính chất tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giải phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của dân làng Xô-man.

Mở đầu câu chuyện là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây” và kết thúc vẫn là “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Hình ảnh ấy như một nét nhạc trầm hùng, một bản đàn dạo, là cái “phông” cho cả một câu chuyện khiến thiên truyện càng mang đậm tính sử thi và lãng mạn hơn. Rừng cây xà nu được xem như là biểu tượng cho con người Xô-man. Với hình ảnh nhân hóa, Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu như những con người, chúng cũng có “vết thương”, biết “ham ánh sáng” và “ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”.

Cây xà nu còn là một hình ảnh so sánh với con người “ngực căng bằng cây xà nu”. Rừng xà nu năm tháng đứng dưới tầm đại bác kẻ thù, chịu đựng biết bao tàn phá, cũng như những đau thương mà dân làng phải gánh chịu trước ách kìm kẹp của giặc. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. “Cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình nhựa ứa ra, tràn trề”… rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. Hình ảnh đó gợi lên một hiện thực đầy đau đớn của đồng bào Tây Nguyên trước sự tàn bạo của quân thù và gợi lên lòng căm thù cũng như kết tụ một ý chí phản kháng.

Nhưng hơn hết vẫn là sức sống mãnh liệt đầy sức trẻ của rừng xà nu bạt ngàn. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, “có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắc như những mũi lê” “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”. Thế mới biết sức trẻ của cây xà nu mãnh liệt đến dường nào! Sức trẻ ấy còn mang tính tượng trưng cho thế hệ trẻ của làng Xô-man. Đó là những Mai, Dít, Tnú, Heng, những con người luôn gắn bó với cách mạng, bất khuất từ tuổi thơ, lớn lên trong lửa đạn, trưởng thành trong đau thương và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì tự do của dân tộc.

Bên cạnh đó, sức sống bất khuất kiên cường của cây xà nu còn được tạo bởi hàng vạn cây ở những đồi xà nu nối tiếp nhau tới chân trời, ở tấm ngực lớn của rừng ưỡn ra che chở cho làng. Đó là những cây xà nu thật vững chắc, xanh tốt đã vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã”, một cây ngã xuống tức thì bốn năm cây con lại mọc lên cứ thế trở thành cả một rừng cây xà nu nối tiếp đến chân trời.

Những cây xà nu, rừng xà nu ấy là hình ảnh của dân làng Xô-man kiên cường chống giặc, bất chấp mọi hi sinh, một lòng đi theo Đảng, đi theo kháng chiến hết thế hệ này đến thế hệ khác. Đó là những cụ Mết, anh Xút, Tnú, Mai, Dít, anh Brôi… mà tiêu biểu là hình ảnh cụ Mết. Nhà văn đã ví cụ “như một cây xà nu lớn”. Hơn ai hết, cụ là người hiểu rất rõ sự gắn bó của cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng xà nu cũng như của dân làng Xô-man. Chính cụ Mết đã nói với Tnú “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “cây mẹ chết cây con lại mọc lên”.

Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hi sinh thầm lặng, lòng dũng cảm và ý chí quật khởi của dân làng Xô-man. “Đứng trên đồi cây xà nu gần con nước lớn, cả vùng Xô-man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời căn dặn của anh Quyết: “Người còn sống phải chuẩn bị dao, mác, vụ, rựa, tên, ná… Sẽ có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú: “Không có gì đượm bằng nhựa cây xà nu… Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc… máu anh mặn chát ở đầu lưỡi…”.

Giọng điệu sử thi của “Rừng xà nu” bắt đầu từ câu chuyện kể của cụ Mết dưới ánh lửa xà nu, một câu chuyện phảng phất phong vị anh hùng ca. Và cây xà nu không chỉ gắn với quá khứ, hiện tại anh hùng mà còn gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời sống văn hóa của người Xô-man, của các dân tộc Tây Nguyên.

Sở dĩ hình tượng cây xà nu được tác giả xây dựng có giá trị nghệ thuật cao vì tác giả đã có nghệ thuật miêu tả “cây xà nu” :

- Nhà văn đã khéo léo dùng nghệ thuật liên tưởng để miêu tả sự sinh sôi nảy nở nhanh chóng của cây xà nu. Đặc biệt tác giả đã chọn lựa và sử dụng từ ngữ đắc địa để miêu tả cây xà nu như những vũ khí sắc nhọn: ở đầu truyện là “những cây xà nu con hình nhọn mũi tên lao thẳng lên”, “ở cuối truyện là những cây mới nhú khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê”.

- Thủ pháp nhân hóa cây xà nu cổ thụ và những cây con.
- Nghệ thuật lặp đồng nghĩa: “đồi xà nu” - “rừng xà nu” - “hàng vạn cây”.
- Thưởng thức cả đoạn văn, chúng ta thấy phong cảnh ở đây như được nhà văn khắc chạm, tạo thành hình, thành khối, có màu sắc, có mùi vị.
- Cây xà nu là một hình tượng quán xuyến trong cả thiên truyện, được nhà văn nhắc đi nhắc lại nhiều lần.

- Chọn hình tượng “cây xà nu”, nhà văn Nguyễn Trung Thành muốn xây dựng một biểu tượng nghệ thuật về con người - dân làng Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu được lặp đi lặp lại như một mô típ chủ đạo để thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm: tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của các buôn làng Tây Nguyên nói riêng và của miền Nam anh hùng nói chung. Hình tượng cây xà nu mang giá trị biểu tượng cao: hình tượng cây xà nu đẹp tương ứng với những phẩm chất cao đẹp của dân làng Xôman, “cây xà nu lớn” với sức sống ngàn đời tượng trưng cho cụ Mết, “bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, “cành lá sum sê” tượng trưng cho thế hệ trẻ như Tnú, Mai, Dít, bé Heng, đặc biệt là Tnú.

3. Hình tượng cây xà nu thật sự là một sáng tạo nghệ thuật đáng kể của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới những lớp ý nghĩa rất khác nhau qua cách viết vừa gợi vừa tả của tác giả. Qua hình tượng này người đọc không chỉ thấy rõ sức sống kiên cường, mãnh liệt của dân làng Xô-man, của con người Tây Nguyên nói riêng mà còn là của dân tộc Việt Nam nói chung trong những tháng năm chống Mĩ và góp phần khẳng định chân lý của dân tộc và thời đại: một dân tộc muốn bảo vệ sự sống còn, độc lập, tự do, phải cầm vũ khí đứng lên chống lại kẻ thù tàn bạo.

NGUYỄN HỮU DƯƠNG - ĐINH PHAN CẨM VÂN
(TT BD VH & LT ĐH Vĩnh Viễn)

Đề thi - Gợi ý chấm Văn TNTHPT 09-10

KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2010
Môn thi : NGỮ VĂN - Gíao dục trung học phổ thông

I. Phần chung cho tất cả thí sinh (5,0 điểm)


Câu 1 (2,0 điểm)
Nêu những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà văn M. Sô-lô-khốp.

Câu 2 (3,0 điểm)
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về lòng yêu thương con người của tuổi trẻ trong xã hội hiện nay.

II. Phần riêng - Phần tự chọn (5,0 điểm)

Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu 3.a hoặc câu 3.b)


Câu 3.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi (phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục - 2008)

Câu 3.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Sóng của Xuân Quỳnh :

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
(Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập một, tr.122 - 123, NXB Giáo dục - 2008)

BÀI GIẢI GỢI Ý

I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm)

Câu 1 : Những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà văn M. Sô-lô-khốp.

- M. Sô-lô-khốp sinh tại vùng thảo nguyên sông Đông tỉnh Rô-Xtốp nước Nga trong một gia đình nông dân nghèo, nghỉ học sớm, tham gia phong trào cách mạng ở địa phương - Năm 1922 (17 tuổi) lên thủ đô Mác-xcơ-va kiếm sống bằng đủ nghề mong thực hiện giấc mơ văn chương. Năm 1928, với quyển I "Sông Đông êm đềm" đã khẳng định tài năng văn chương (đến năm 1940 hoàn chỉnh tác phẩm 4 tập). Ông đã tự học, đọc sách nhiều, nên tiểu thuyết của ông là công trình kiến thức uyên bác. Ông được bầu làm Viện sĩ hàn lâm khoa học Liên Xô năm 1939. Trong thế chiến thứ 2, ông tham gia hồng quân Liên Xô (phóng viên chiến trường) chống phát xít Đức. Sau chiến tranh tiếp tục viết về cuộc sống con người vùng sông Đông. Ông được nhận giải Nobel văn chương năm 1965.

- M. Sô-lô-khốp là nhà văn hiện thực Nga lỗi lạc thế kỷ XX. Nổi bật nhất là thể loại tiểu thuyết như :
Sông Đông êm đềm 4 tập (1927 - 1940)
Đất vỡ hoang 2 tập (1932 - 1959)
Số phận con người (1957)

Câu 2. Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về lòng yêu thương con người của tuổi trẻ trong xã hội hiện nay.
a. Yêu cầu học sinh biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, biết cách trình bày những suy nghĩ của mình về hiện tượng xã hội trong đời sống quanh ta. Ở đây là về lòng yêu thương con người của tuổi trẻ trong xã hội hiện nay. Bài làm ngắn gọn, bố cục rõ ràng, lý lẽ kết hợp với dẫn chứng, văn viết diễn đạt mạch lạc, trong sáng.

b. Thế hình trong bài làm:

1. Xã hội hiện nay trong một bối cảnh đất nước rộng mở, năng động, phát triển kinh tế, hòa nhập toàn cầu, tuổi trẻ tập trung trong học tập nắm bắt tri thức như chìa khóa vào đời là tốt, nhưng cả xã hội quan tâm đến tình cảm yêu thương con người, ý thức trách nhiệm với cộng đồng của tuổi trẻ hiện nay.

2. Tình yêu thương con người là phẩm chất cao quý, sáng ngời giá trị nhân văn của mỗi con người chúng ta, phát xuất từ tình yêu những người ruột thịt : cha mẹ, anh em, họ hàng cô bác rồi đến cộng đồng người trong xã hội nói chung. Đó là một truyền thống nhân đạo của cha ông ta "Thương người như thể thương thân".

* Tuổi trẻ trong xã hội hiện nay cũng đã thể hiện được tình yêu thương con người. Đó là tình người trong cuộc sống.

- Những đứa con trong gia đình biết vâng lời cha mẹ, thương yêu anh chị em, chăm ngoan trong học tập, lễ phép với thầy cô, … đó là biểu hiện của sự yêu thương và trách nhiệm.

- Những học sinh, sinh viên không những lo đèn sách, học tập văn hóa, thâu lượm kiến thức, mà họ còn tham gia nhiều hoạt động xã hội như : Chiến dịch tình nguyện mùa hè xanh, hiến máu nhân đạo, … đó là biểu hiện tốt đẹp của tình yêu thương con người.

- Thậm chí trong thế hiện trẻ hiện nay, có những bạn trong hoàn cảnh khó khăn, những thanh thiếu niên khuyết tật, họ không những vượt lên chính mình để sống, mà họ còn chia sẻ lo cho bao người : ta có giấc mơ đẹp của Thúy, chim cánh cụt Đất Việt của Chánh Quân, giám đốc một ngón tay Phan Quốc Hùng, … tuổi trẻ trong xã hội hiện nay đẹp biết bao ! Họ để lại một niềm tin, tấm gương sáng cho bao người noi theo.

* Tuy nhiên, có một bộ phận giới trẻ trong xã hội hiện nay còn ăn chơi lêu lỏng, không những không thể hiện tình yêu thương đối với cha mẹ, những người ruột thịt luôn lo lắng quan tâm cho mình, thậm chí nhưng bạn ấy còn hỗn láo với cha mẹ, đánh cả thầy cô giáo và bạn học, bạo hành trong nhà trường, … ngoài xã hội thì họ còn đua xe, đánh võng đùa giỡn trước bao sinh mạng con người. Một số ít bạn còn nghiện ngập, trộm cắp, giết người, họ sống thật ích kỷ. Những người trẻ ấy thật đáng phê phán, đáng lên án.

- Mặt khác trong xã hội hiện nay, nhìn chung tuổi trẻ sống còn dửng dưng, bàng quang vô cảm với những hiện tượng tiêu cực, không lành mạnh quanh ta, họ chưa thực sự dũng cảm như Lục Vân Tiên để biểu hiện tình người.

3. Lòng yêu thương con người của tuổi trẻ hiện nay đã biểu hiện phong phú trong một xã hội rộng mở, phát triển, hòa nhập, họ ngấm ngầm phát huy tình người trong truyền thống nhân đạo của dân tộc, nó không được thể hiện tập trung, quyết liệt như khi có kẻ thù đến xâm lược, giày xéo dân tộc mình. Tuy nhiên cả xã hội vẫn quan tâm, lo lắng về một bộ phận tuổi trẻ còn sống thờ ơ, bàng quang, vô cảm với những con người, cuộc sống quanh mình.

II. PHẦN RIÊNG – PHẦN TỰ CHỌN (5,0 điểm)


Câu 3.a.
I) Yêu cầu: Học sinh biết làm bài văn nghị luận phân tích những đặc điểm của nhân vật trong tác phẩm tự sự, bố cục chặt chẽ, văn viết trong sáng.

II) Bài làm thể hiện những ý chính :

1. Nguyễn Thi (1928 - 1968), là cây bút văn xuôi hiện thực xuất sắc trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông đặc biệt thành công với những tác phẩm viết về đất và người Nam Bộ. Những đứa con trong gia đình đã thể hiện rõ điều đó. Đặc biệt nhân vật Việt được tác giả khắc họa thật sinh động và giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam trong thời chống Mỹ cứu nước.

2. Phân tích nhân vật Việt :

a) Việt - chàng trai Nam Bộ mới lớn với những phẩm chất hồn nhiên :
- Giữ trong mình cái ná thun từ thuở nhỏ dù đã cầm súng đi đánh giặc.
- Khi bị thương nặng trong đêm tối giữa rừng sâu, không sợ chết mà sợ ma.
- Tranh giành với chị Chiến từ việc đi soi ếch đến việc lập chiến công, giành đi bộ đội với chị.

>> Việt là một hình ảnh sinh động của tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc sống đời thường những năm kháng chiến chống Mỹ.

b) Việt - mang tình cảm gia đình sâu nặng, sâu sắc :
- Thương mẹ, thương chị, thương chú Năm. Qua dòng hồi tưởng của Việt, hình ảnh người mẹ đã mất đã hiện lên qua người chị. Thương chị nhưng tính còn trẻ con nên giấu chị với đồng đội.

>> Tình thương yêu của Việt đối với mẹ, chị là vô bờ bến, đó là động lực giúp Việt cầm súng đánh giặc để trả thù nhà.

c) Việt - mang phẩm chất người anh hùng :
- Gan góc, chiến đấu với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần, với ý chí và truyền thống của gia đình cách mạng.
- Dũng cảm cùng chị bắn cháy tàu giặc.
- Dù bị thương nặng, đói khát, dù tỉnh dù mê, dù kiệt sức vẫn sẵn sàng chiến đấu.

>> Việt mang phẩm chất anh hùng cách mạng của thanh niên thời chống Mỹ cứu nước.

III) Qua dòng hồi tưởng của chính nhân vật Việt, nhà văn Nguyễn Thi đã khắc họa thành công nhân vật Việt với những phẩm chất đẹp đẽ: trẻ trung, tình yêu thương gia đình sâu nặng, gan dạ. Việt thật đáng yêu nhưng cũng rất mực dũng cảm anh hùng. Nếu câu chuyện của gia đình Việt là một “dòng sông”, thì Việt là “khúc sông sau”. Việt tiếp nối truyền thống yêu nước của cha ông, của dân tộc Việt Nam trong thời đại chống Mỹ cứu nước.

Câu 3.b.

Giới thiệu chung về tác giả, bài thơ, đoạn thơ và hình tượng, cần nhấn mạnh
- Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ nữ thới kháng chiến chống Mĩ. - Xuân Quỳnh có nhiều đóng góp trong mảng thơ tình yêu.
- Nêu đặc điểm thơ Xuân Quỳnh
- Xác định vị trí và nội dung đoạn thơ.

Phân tích nội dung 2 đoạn thơ.
2.1 Sóng là bài thơ tình yêu thời chiến và ở đó người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình – người phụ nữ Việt Nam khi yêu: chân thành, da diết, tận tuỵ, thuỷ chung và tin tưởng ở tin yêu dù “muôn vời cách trở” .

2.2 Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ; là ẩn dụ cho tình yêu và khát vọng cao đẹp của tâm hồn người phụ nữ.
Khát vọng một tình yêu cao đẹp; và khát vọng một tình yêu muôn thuở.
3.1 Khát vọng một tình yêu cao đẹp :- Mượn tính chất và quy luật của sóng để nói về khát vọng trong tình yêu con người.
+ Cái dữ dội của sóng biển như sự mãnh liệt trong tình yêu con người.
+ Sự dịu êm của sóng như những phút giây êm đềm trong tình yêu.
+ Cái ồn ào của sóng như sự sôi nổi khi yêu.
+ Khi sóng lặng lẽ như sự suy tư, trăn trở để bồi đắp trong tình yêu.

- Biểu hiện của tình yêu cao đẹp
+ “Sông không hiểu nổi mình” có nghĩa là không hiểu nổi sóng vì sự giới hạn chật hẹp của sông, không đủ sức chứa hết những sác thái phong phú của sóng và như một tất yếu, “sóng tìm ra tận bể”, bởi lẽ chỉ có đại dương bát ngát, bao la mới đủ cho sóng phô diễn hết sác thái và vẻ đẹp của mình.
==> cũng vậy, một tâm hồn tầm thường làm sao nuôi dưỡng được một tình yêu cao đẹp. vì thế, ngay khổ thơ đầu, cái tôi trữ tình đã bộc lộ một khát vọng về tình yêu đẹp.

3.2 Khát vọng một tình yêu muôn thuở

- Nhà thơ không nói con sóng “ngày xưa – ngày nay”, mà nói “ngày xưa – ngày sau” như khẳng định sự muôn đời và tình yêu cũng vậy sẽ mãi tồn tại với con người và nhân loại.

- Nhà thơ quan niệm tình yêu gắn liền với tuổi trẻ “nỗi khát vọng tình yêu; bồi hồi trong ngực trẻ” . có thể liên hệ với câu thơ của Xuân Diệu “Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo; Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu”.

==> sự nồng nàn, sôi nổi , hồn nhiên và phóng khoáng trong tình yêu.

4. Đánh giá chung:

- Hai khổ của bài thơ “Sóng” tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh.
- Những sáng tạo mới mẻ, bất ngờ tạo nên sắc thái biểu cảm và gợi nhiều liên tưởng sâu sắc.
- Cái tôi trữ tình với khát vọng về một tình yêu cao đẹp và phẩm chất tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam.

TRẦN HỒNG ĐƯƠNG - NGUYỄN ĐỨC HÙNG
(TT BD VH & LT ĐH Vĩnh Viễn)

Khuynh hướng ra đề

Không có đề thi dành cho “học tủ”

TT - Với xu hướng ra đề thi tốt nghiệp những năm gần đây, nhiều giáo viên dự đoán đề thi sẽ tiếp tục ra theo hướng đòi hỏi thí sinh phải có năng lực nhận định và vận dụng sáng tạo. Ở số báo này, các giáo viên bộ môn đánh giá lại đề thi các năm trước và mong mỏi đề thi năm nay sẽ có nhiều thay đổi theo hướng tích cực hơn.

* GV Dương Thu Trang (Trường THPT Mạc Đĩnh Chi, TP.HCM):

Mong đề văn hay

Đề thi tốt nghiệp môn văn hai năm trở lại đây thường có ba câu. Câu 1 là câu hỏi giáo khoa nhưng không giống ngày xưa, tức không nhằm kiểm tra kiến thức tái hiện, mô phỏng mà đòi hỏi học sinh phải có tư duy. Ví dụ như năm trước hỏi về tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn: yêu cầu thí sinh phân tích sự kiện và nêu lên ý nghĩa của sự kiện đó.

Câu 2 thường là câu nghị luận xã hội: đây là loại đề thi khiến giáo viên và học sinh cảm thấy thú vị và ủng hộ. Câu hỏi này nhằm kiểm tra mảng kiến thức xã hội, kiến thức về cuộc sống của thí sinh.

Thí sinh làm bài phải có khả năng quan sát, thu thập thông tin qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đồng thời cũng phải có khả năng lập luận để đáp ứng yêu cầu bài thi. Việc hạn chế bài làm của câu hỏi này chỉ dừng ở mức 400 chữ theo tôi cũng rất hay. Thí sinh sẽ không được viết lan man mà phải sắp xếp các ý một cách logic và rõ ràng.

Câu 3 thường là câu về nghị luận văn học, đây là câu hai năm gần đây vẫn ra theo xu hướng cũ, chỉ khác trước là nó chiếm đến 8 điểm thì bây giờ chỉ còn 5 điểm.

Câu này nhằm kiểm tra kiến thức văn học, về tác giả - tác phẩm mà học sinh đã được học trong sách giáo khoa. Nếu ở câu 3 mà cho thí sinh tự chọn một tác phẩm nào đó mình tâm đắc nhất để phân tích, bình luận... thì sẽ hay hơn. Bởi mục đích của việc dạy văn là làm sao cho học sinh đồng cảm và cảm nhận được những ý nghĩa của tác phẩm chứ không phải học thuộc lòng những gì thầy cô viết ra sẵn, khi thi xong, các em sẽ quên hết.

* GV Đoàn Thị Mộng Điệp (Trường THPT Lê Quý Đôn, TP.HCM):

Câu hỏi sẽ trải khắp chương trình học

Đề thi môn Anh văn mấy năm gần đây thường có các nội dung về phát âm, tìm lỗi sai, bài đọc - hiểu, ngữ pháp, những mẫu câu về giao tiếp... Không giống như những môn thi khác, môn Anh văn chỉ có phần cơ bản chứ không có phần nâng cao.

Ở môn này, thí sinh sẽ làm bài thi trắc nghiệm: trả lời 50 câu hỏi trong thời gian 60 phút. Các câu hỏi trải khắp chương trình học. Vì thế nếu học tủ, thí sinh sẽ khó làm bài tốt. Việc ra đề thi theo dạng trắc nghiệm, ưu điểm của nó hẳn ai cũng biết, chỉ tiếc là ở ta vẫn chưa thể tổ chức môn nghe - nói vì phải thi môn này mới phù hợp với cách dạy hiện nay trong trường phổ thông.

* GV Trần Thị Thu Thủy (tổ trưởng tổ hóa Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, TP.HCM):

Tôi đoán đề thi hóa sẽ khó hơn

Đề thi tốt nghiệp THPT môn hóa gần đây nhất là năm 2007 - năm đầu tiên thi theo dạng trắc nghiệm nên đề thi lúc ấy khá dễ. Sau ba năm, chất và lượng dạy - học theo dạng trắc nghiệm đã tăng nhiều. Bởi vậy, tôi đoán đề thi năm nay sẽ khó hơn, yêu cầu cao hơn về kỹ năng tính toán của thí sinh.

Thời gian làm bài chỉ có 60 phút. nếu không giải toán nhanh, học bài không kỹ hoặc học tủ sẽ rất khó khăn.

* Một giáo viên môn toán (Trường THPT Gia Định, TP.HCM):

Hi vọng đề toán như năm trước

Hai năm gần đây, số học sinh đạt điểm trên trung bình môn toán ở TPHCM có nhích lên mặc dù đề thi không có “đất” cho việc học tủ. Với riêng môn toán, đề thi tốt nghiệp THPT chỉ yêu cầu những kỹ năng lặp lại, kỹ năng tương tự hóa, không yêu cầu suy luận và sáng tạo nhiều.

Theo tôi, điểm yếu nhất của học sinh ngày nay là kỹ năng tính toán, khá nhiều em mất căn bản và mất điểm vì kỹ năng này.

Một trong những yếu tố ảnh hưởng nhiều đến phương pháp dạy học trong trường phổ thông là nội dung đề thi. Vì thế tôi đoán và cũng mong năm nay đề thi sẽ gần giống như năm trước bởi đây chỉ là kỳ thi tốt nghiệp, học sinh trung bình có thể làm bài được là tốt rồi.

H.HG. ghi

--------------------
* Ông Trần Văn Nghĩa (phó cục trưởng Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục - Bộ GD-ĐT):

Sẽ có nhiều đề thi “mở”

Theo nguyên tắc chung, nội dung đề thi tốt nghiệp THPT sẽ bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình THPT, chủ yếu là chương trình lớp 12. Đề thi sẽ có nhiều câu hỏi với độ khó khác nhau, có những câu chỉ yêu cầu học sinh tái hiện kiến thức cơ bản đã học, nhưng cũng có những câu yêu cầu học sinh phải có năng lực đánh giá, vận dụng, sáng tạo (những câu mang tính phân loại thí sinh)

Xét về tổng thể, đề thi sẽ được ra ở mức độ để những học sinh có học lực trung bình, nếu ôn tập tốt thì có thể vượt qua được kỳ thi. Tuy nhiên, năm nay Bộ GD-ĐT cũng sẽ tiếp tục hạn chế những câu hỏi theo hướng học sinh học thuộc lòng máy móc cũng trả lời được, những câu hỏi ra theo hướng “mở” sẽ xuất hiện ở các môn thi chứ không chỉ ở môn văn.

V.H. ghi