TS10 2011-2012: Đề - Gợi ý chấm Văn tại TP HCM

KÌ THI TUYỂN SINH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
Khóa ngày 21 tháng 06 năm 2011 tại TPHCM
Môn thi : VĂN
Thời gian: 120 phút (không tính thời gian giao đề)
ĐỀ CHÍNH THỨC

Câu 1: (1 điểm)
Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê và lòng yêu nước của nhân vật ông Hai. Đó là tình huống nào?
Câu 2: (1 điểm)
                                                Kim vàng ai nỡ uốn câu,
                                    Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.
            Câu ca dao trên khuyên chúng ta điều gì? Điều đó liên quan đến phương châm hội thoại nào?
Câu 3: (3 điểm)
            Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con,…”
                                                                        (Theo Lí Lan, Cổng trường mở ra)
            Từ việc người mẹ không “cầm tay” dắt con đi tiếp mà “buông tay” để con tự đi, hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) bàn về tính tự lập.
Câu 4: (5 điểm)
Cảm nhận về cảnh mùa xuân trong bốn câu thơ đầu và sáu câu thơ cuối của đoạn trích Cảnh ngày xuân:

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
[…]
Tà tà bóng ngà về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu 1:
            Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê và lòng yêu nước của nhân vật ông Hai: Trong lúc đang sống ở vùng tự do, ông Hai được biết tin làng của ông đã trở thành một làng Việt gian. Tin đó đã mang lại rất nhiều xúc động cho ông. Nó khiến ông có nhiều tâm trạng, suy nghĩ và hành động. Qua đó, nó thể hiện lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai.
Câu 2:
            Câu ca dao trên với một số hình ảnh ẩn dụ, kết cấu so sánh đặc sắc: Kim vàng - uốn câu // Người khôn - nặng lời  đã đưa ra lời khuyên: chúng ta cần phải có thái độ tế nhị, lịch sự khi nói năng, hội thoại với nhau trong giao tiếp. Điều này liên quan đến phương châm hội thoại lịch sự: khi giao tiếp cần chú ý đến sự tế nhị, khiêm tốn và tôn trọng người khác.
Câu 3:
Học sinh có thể làm nhiều cách khác nhau miễn là có đủ một số ý theo quy định. Sau đây là một cách làm cụ thể:
·        Mở bài: Nêu lại câu văn trên đề bài để dẫn đến tính tự lập
Khi còn nhỏ, chúng ta sống trong sự bảo bọc của ông bà, cha mẹ nhưng không phải lúc nào người thân yêu cũng ở bên cạnh chúng ta. Bàn tay dìu dắt của cha mẹ, đến một lúc nào đó cũng phải buông ra để chúng ta độc lập bước vào đời. Hai chữ “buông tay” trong câu văn của Lý Lan như một bước ngoặt của hai trạng thái được bảo bọc, chở che và phải một mình bước đi. Việc phải bước đi một mình trên đoạn đường còn lại chính là một cách thể hiện tính tự lập.
·        Thân bài:
+ Giải thích: tự lập là gì? ( nghĩa đen: tự đứng một mình, không có sự giúp đỡ của người khác. Tự lập là tự mình làm lấy mọi việc, không dựa vào người khác).
                   Người có tính tự lập là người biết tự lo liệu, tạo dựng cuộc sống cho mình mà không ỷ lại, phụ thuộc vào mọi người xung quanh.
+ Phân tích:
_ Tự lập là đức tính cần có đối với mỗi con người khi bước vào đời.
_ Trong cuộc sống không phải lúc nào chúng ta cũng có cha mẹ ở bên để dìu dắt, giúp đỡ ta mỗi khi gặp khó khăn. Vì vậy, cần phải tập tính tự lập để có thể tự mình lo liệu cuộc đời bản thân.
_ Người có tính tự lập sẽ dễ đạt được thành công, được mọi người yêu mến, kính trọng.
_ Dẫn chứng.
+ Phê phán: _ Tự lập là một phẩm chất để khẳng định nhân cách, bản lĩnh và khả năng của một con người. Chỉ biết dựa dẫm vào người khác sẽ trở thành một gánh nặng cho người thân và cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa. Những người không có tính tự lập, cứ dựa vào người khác thì khó có được thành công thật sự. Cho nên ngay cả trong thế giới động vật, có những con thú đã biết sống tự lập sau vài tháng tuổi.
+ Mở rộng: tự lập không có nghĩa là tự tách mình ra khỏi cộng đồng. Có những việc chúng ta phải biết đoàn kết và dựa vào đồng loại để tạo nên sức mạnh tổng hợp.
+ Liên hệ bản thân: cần phải rèn luyện khả năng tự lập một cách bền bỉ, đều đặn. Để có thể tự lập, bản thân mỗi người phải có sự nỗ lực, cố gắng và ý chí mạnh mẽ để vươn lên, vượt qua thử thách, khó khăn, để trau dồi, rèn luyện năng lực, phẩm chất.
·        Kết bài:
Nếu mọi người đều biết sống tự lập kết hợp với tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau thì xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn và cuộc sống mỗi người sẽ được hạnh phúc.
Câu 4:
            Đây là câu nghị luận văn học yêu cầu trình bày cảm nhận về một nội dung trong một đoạn thơ. Bài viết cần đáp ứng yêu cầu của việc viết một bài văn nghị luận văn học với đầy đủ bố cục có 3 phần. Bài viết cũng cần thể hiện kỹ năng cảm thụ và phân tích một đoạn thơ để nói lên cảm nhận của mình về đoạn thơ ấy. Thí sinh có thể có những cách trình bày khác nhau. Sau đây là một số gợi ý:
            - Giới thiệu vài nét về Nguyễn Du và tác phẩm Đoạn trường tân thanh (truyện Kiều).
            - Giới thiệu đoạn thơ được dẫn trong đề bài.
            - Giới thiệu vị trí của đoạn thơ: 10 câu không liên tiếp trong đoạn trích Cảnh ngày xuân thuộc phần đầu của tác phẩm truyện Kiều. Đoạn thơ miêu tả cảnh mùa xuân trong ngày hội Đạp Thanh.
            - Phân tích để trình bày cảm nhận về cảnh mùa xuân trong 4 câu thơ đầu: đó là quang cảnh tháng thứ ba của mùa xuân với nét đẹp xanh tươi, thanh khiết và phóng khoáng của: cỏ non xanh tận chân trời, cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Chú ý các chi tiết: hình ảnh con én  gợi đến mùa xuân; hình ảnh cỏ non xanh tận chân trời, cành lê trắng, từ “điểm” mang lại sức sống cho bức tranh cảnh mùa xuân. Thí sinh có thể liên hệ so sánh với một vài câu thơ miêu tả về mùa xuân (sóng cỏ tươi xanh gợn đến trời – Hàn Mặc Tử; Mọc giữa dòng sông xanh / Một bông hoa tím biếc – Thanh Hải) để làm nổi bật nét độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du.
            - Phân tích để trình bày cảm nhận về cảnh mùa xuân trong 6 câu thơ cuối của đoạn thơ: đó là cảnh buổi chiều lúc chị em Thúy Kiều trở về. Bức tranh buổi chiều được miêu tả với nét đẹp dịu dàng, thanh nhẹ, nhuốm màu tâm trạng, bâng khuâng, xao xuyến mà con người thường có sau một cuộc vui và trong một buổi chiều tà. Cảnh được miêu tả bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Thí sinh cần khai thác những từ láy được sử dụng một cách khéo léo trong đoạn thơ: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ. Những từ láy nói trên vừa có tác dụng miêu tả cảnh vật, vừa gợi tới tâm trạng của con người trong cảnh vật. Thí sinh cũng có thể liên hệ so sánh với một vài câu thơ khác (Trước xóm sau thôn tựa khói lồng / Bóng chiều man mác có dường không / Theo hồi còi mục trâu về hết / Cỏ trắng từng đôi liệng xuống đồng – Trần Nhân Tông) để làm nổi bật nét riêng của buổi chiều mùa xuân trong 6 câu thơ này.
            - Nhận xét đánh giá chung về đoạn thơ ở nghệ thuật, nội dung và ý nghĩa: nghệ thuật miêu tả đặc sắc, hệ thống từ giàu chất tạo hình; bức tranh mùa xuân đẹp, thanh khiết, dịu nhẹ và đầy tâm trạng; thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du.
Trần Hồng Đương
(Trường THPT Lạc Hồng – TP.HCM)


2 nhận xét:

  1. Đề Văn tương đối khó

    TP.HCM:

    Cấu trúc đề thi năm nay giống như đề thi năm 2010 (gồm 4 câu: một câu giáo khoa về văn học, một câu ngữ pháp, một câu nghị luận xã hội và một câu nghị luận văn học). Đa số học sinh đều có cảm giác thoải mái khi đọc cấu trúc đề.

    - Câu 1 là câu hỏi về giáo khoa văn học. Câu này đòi hỏi học sinh phải nắm được tình huống quan trọng trong truyện mới có thể trả lời đúng câu hỏi. Khi trả lời, học sinh lại phải có cách trình bày sao cho không quá đơn giản mà lại không quá dài dòng. Hai điều này đều ảnh hưởng đến chất lượng của câu trả lời.

    So với câu 1 năm 2010, câu này tương đối khó hơn.

    - Câu 2 là câu hỏi về ngữ pháp. So với câu 2 năm 2010, câu này khó hơn vì nó đòi hỏi học sinh vừa phải thuộc bài, hiểu bài (phương châm hội thoại lịch sự) vừa phải hiểu cả những ẩn dụ trong ngữ liệu được dùng để hỏi. Không đáp ứng hai điều nói trên, học sinh khó có thể làm tốt câu số 2 này.

    - Câu 3 là câu nghị luận xã hội. Về cơ bản, yêu cầu của câu 3 này không có gì khác với câu 3 của năm 2010. Tuy nhiên, vấn đề “tự lập” trong đề thi năm nay tương đối dễ hiểu hơn, gần gũi hơn so với cách “thể hiện bản thân trong môi trường học đường” trong đề thi năm 2010.

    - Câu 4 là câu nghị luận văn học. Về cơ bản, yêu cầu của câu 4 này không có gì khác với câu 4 của năm 2010. Cả hai đều đòi hỏi học sinh trình bày cảm nhận của mình. Tuy nhiên, mỗi đề lại có cái khó riêng. Nếu đề thi năm rồi đòi hỏi học sinh phải nhớ nhiều chi tiết về nhân vật anh thanh niên để nói lên cảm nhận của mình về vẻ đẹp của nhân vật ấy thì đề thi năm nay lại đòi hỏi học sinh phải thể hiện được cảm nhận của mình đối với cái hay, cái đẹp của một đoạn thơ và phải trình bày được cảm nhận đó một cách có cảm xúc, có lý lẽ chẳng những để làm rõ cảm xúc suy nghĩ của mình mà còn để thuyết phục được người đọc. Do đó, câu 4 này có tính phân loại học sinh tương đối cao.

    Nhìn chung, cấu trúc đề quen thuộc, nội dung được kiểm tra gắn với những kiến thức cơ bản của chương trình. Độ khó của đề tương đối cao, có tính phân loại học sinh và phù hợp với yêu cầu tuyển sinh. Tuy nhiên, câu 1, câu 2 và câu 4 của đề thi đều thuộc học kỳ 1 và đấy cũng là một điều khó đối với học sinh.


    Tóm lại, đề thi có tính tư tưởng cao. Trong đó, hai câu 3 và 4 có tính phân loại cao, sẽ thuận lợi cho việc tuyển sinh vào lớp 10.
    -----------
    Nguyễn Hữu Dương
    (Trung tâm Luyện thi Đại học và Bồi dưỡng Văn hóa Vĩnh Viễn)

    Trả lờiXóa
  2. Đáp án chính thức nè:
    copy đường line dưới đây và dán vào thanh địa chỉ

    http://www.giaoduc.edu.vn/news/van-de-su-kien-665/dap-an-cac-mon-thi-ky-thi-tuyen-sinh-lop-10-164191.aspx

    Trả lờiXóa